Thursday, January 26, 2017

Bản Đồ của Sự Bội Phản 1958

1958

Gary và Nellie không có nhiều bạn nhưng chẳng lấy đó làm buồn vì họ thích lối sống yên tịnh.  Họ cũng không gần gụi với bố mẹ nàng, mùa đông năm ngoái ông bà đến thăm cháu nhưng chỉ ở chơi ba ngày đã phải đi về vì công việc đăng đăng đê đê của trại rau.  Từ khi có Lilian, Gary và Nellie ít đi chơi vì ngại phải mướn người coi trẻ.  Có lần, một người bạn trai cũ của Nellie gọi điện thoại nói chuyện trên trời dưới đất cả hàng giờ đồng hồ.  Gary nổi cơn lôi đình và to tiếng với vợ.  Anh dọa sẽ dọn ra khỏi nhà nếu cứ nói chuyện với thằng ấy.  Rồi Nellie cũng phải chịu và bảo người bồ cũ thôi đừng gọi nữa.  Nàng biết chồng nói là làm.  Có khi Gary làm việc đến đêm, ngủ lại trong cái phòng làm việc bé bằng lỗ mũi, nằm trên miếng futon mà anh nhất định mua mặc cho vợ phản đối.  Nàng sợ anh hết còn mê nàng vì đã tăng kí sau khi sanh nở.  Thật ra thì thân hình nàng trông vẫn mảnh dẻ, đùi thon, eo nhỏ.  Nellie để ý thấy Gary đôi khi lơ đãng, ngồi bàn mà mơ mộng đâu đâu.  Nàng không hiểu sao chàng lại có vẻ u sầu như thế.

Mà đầu chàng có để nơi khác thật, nơi có những bóng mờ kỷ niệm của người vợ trước.  Chàng nhớ một buổi tối sau đám cưới không lâu.  Dụ Phong đang ngồi vắt chéo chân trên chiếc giường gạch sưởi ấm, tay kim tay đê để vá miếng rách trên chiếc áo nhồi bông của chàng.  Nàng mặc cái áo kép màu lục có in hình những nụ nhài bé tí làm tôn khuôn mặt bóng láng, yên lặng tập trung của nàng.  Chàng nằm gối đầu lên đùi vợ và ngắm nàng say đắm, mặc cho nàng bảo, “Nhắm mắt ngủ một giấc đi.”   Ánh sáng ngọn đèn dầu dịu dàng nhưng chập chờn, và gian phòng đôi vợ chồng son sao an bình quá, làm chàng ước gì cứ được như vậy mãi suốt đời.  Cái hình ảnh dịu hiền của Dụ Phong ngồi may áo cho chồng cứ thỉnh thoảng lại hiện lên, làm tâm hồn chàng dày vò và đôi mắt chàng đẫm lệ.

Anh nghĩ nàng vẫn yêu anh, nhưng trong bụng lại mong nàng phản bội, đi lấy chồng khác, để cho đời đỡ khổ và để anh bớt hối hận.   Nhưng không có nàng thì ai trông nom cha mẹ già.  Thật là trớ trêu và bất công.  Anh ước gì có một ngày anh có dịp để đền bù xứng đáng cho nàng.

Nhưng những ý nghĩ về Dụ Phong không ảnh hưởng nhiều đến cuộc hôn nhân hiện tại.  Anh thương Nellie, và mỗi tuần vẫn làm tình say đắm.  Anh hôn môi hôn tai nàng, và khi vào trong sâu, anh cử động chậm rãi và nhẹ nhàng để cảm thấy được nhịp đập của con tim, để cả hai cùng tới một lúc.  Anh dùng mọi cách để đưa nàng tới cực điểm và thích thú ngắm nhìn khuôn mặt nàng ngây ngất nhắm nghiền như đang trong cơn đau đớn.  Tuy thích làm tình với vợ, nhưng có lúc anh muốn ngủ một mình, lấy lý do phải làm đêm, không muốn phá giấc ngủ của nàng.  Thật ra anh chỉ muốn đầu óc tỉnh táo để hôm sau còn đi làm.

Trong cộng đồng tình báo vùng DC, Gary bắt đầu có tiếng là thông dịch viên tiếng Hoa giỏi nhất.  Người ta bắt đầu gọi anh là nhà ngữ học.  Uy tín của anh một phần cũng nhờ quen biết với George Thomas, người có trách nhiệm Trung Quốc sự tại chi bộ Á Đông và là người hay chỉ định công tác cho Gary.  Để thăng tiến nghề nghiệp, Thomas đã ghi danh chương trình tiến sĩ ban Văn Học Trung Quốc, dự định sẽ viết luận án về Đỗ Mục, thi sĩ đời Đường mà anh anh hâm mộ đến độ thi phú làu làu, đọc ra vanh vách.  Ngoài sách vở chủ yếu, Thomas còn phải tham khảo tài liệu thứ cấp viết bằng cổ văn mà anh không rành, nên phải nhờ Gary dịch cho những đoạn văn quan trọng.  Chuyện này đối với Gary không khó.  Anh chỉ việc mượn những tập thi tuyển dầy cui từ Thư Viện Quốc Hội, nơi anh rất thích và thường hay lui tới hàng tháng.  Thomas muốn bỏ tiền túi ra trả, hai đô la một giờ, nhưng Gary khăng khăng cự tuyệt.  Anh làm một phần để trả ơn, và cũng để tình bạn với một nhân viên cao cấp trong lòng của thế giới tình báo được thêm sâu đậm.

Để trả ơn, THomas mời Gary đến một câu lạc bộ chơi nhạc sống có tên là Hẻm Du Mục.  Chỗ đó sực mùi xì gà huýt ki, phía đàng sau có bàn bi da.  Chiêu đãi viên thì trẻ tuổi dễ thương, đi giày cao gót, váy ngắn cũn cỡn, tóc đeo hoa lưu ly thảo, tuy ánh đèn huỳnh quang có làm mặt các nường trông hơi xanh xao.  Gary và Thomas uống bia, ăn lạc rang và gà rán cục.  Thomas nhìn chằm chằm đít gái mà không biết ngượng trong khi Gary cố kềm cơn thèm muốn, lắm khi đến độ đau cả cổ.  Gary ước gì mình bạo như Thomas.  Thỉnh thoảng họ ăn tối ở đó, hoặc bíp tết hay sườn lợn nướng hay enchilada nhân gà.  Trong khi ăn thì Thomas tra vấn Gary về những vấn đề miền Viễn Đông.

Đó cũng là nơi mà Gary khám phá ra nhạc jazz năm 1958.  Anh thích cái giòng nhạc lên xuống tự ý, lúc thì đong đưa, lúc lại lao xuống, và khả năng tùy hứng đầy tự tin của người nhạc công da đen, một anh có tóc dài bện lại, một kiểu tóc mà Gary chưa thấy bao giờ.  Tuy nốt nhạc biến hóa bất thường nhưng giai điệu lại rất an ủi và thư giãn.  Anh thích cái bản chất không thể lường trước của nhạc jazz.  Cái không bao giờ chuẩn bị,  không có bài bản, mỗi lần một khác, nhưng lại rất kiềm chế.  Anh mê đến độ bắt đầu thu thập đĩa nhạc jazz, nhất là của Louis Armstrong và Benny Goodman.

Một buổi tối Thomas nói Gary trong khi nhấm nháp ly Chablis, “Chú mày nên vào quốc tịch càng sớm càng tốt.”  vừa nói mà mắt vừa nháy nhó.  Gary hiểu là một khi thành công dân sẽ có nhiều việc thơm hơn.  

“Làm ngay,”  Gary nói.

Vì chưa có quốc tịch nên Thomas chưa đưa Gary tài liệu tối mật để dịch.  Tuy vậy, thỉnh thoảng Thomas cũng dùng Gary để gửi những mật lệnh đòi hỏi phải chính xác, không thể hiểu nhầm, cho gián điệp ở bên Tàu. Khi thông dịch thì Gary biết được một số mật danh, đặc vụ, và kế hoạch liên lạc.  Anh chỉ ghi xuống mà không gởi ngay, vì nhớ lời Bính Văn căn dặn: anh là điệp viên chiến lược chứ không phải hạng gián điệp lẻ tẻ chuyên nghề phá rối hay đánh cắp kỷ thuật.  Hơn thế nữa, trong ngành gián điệp, thời gian là yếu tố quyết định.  Dữ kiện thu thập trước khi sự việc xảy ra gọi là tình báo, còn dữ kiện thu thập trong khi xảy ra thì gọi là tin tức.  Vì không có đường giây liên lạc với Bính Văn một cách nhanh chóng nên anh chẳng thèm thu thập những tin tức có giá trị thời tính.

Trong lúc ấy anh cũng đang bận tâm với những vấn đề đang xảy ra bên Tàu.  Cuối năm 1958, Krushchev đến thăm Bắc Kinh, và hai quốc gia đồng ký một bản công bố chung nhấn mạnh sự hợp tác và đoàn kết với nhau.  Một tháng sau khi vị lãnh đạo Xô Viết trở lại Mạc Tư Khoa, Mao ra lệnh pháo kích hàng loạt vào quân đội Dân Quốc trên đảo Kim Môn.  Có một đêm mà cả năm trăm khẩu đại bác nòng ngắn nòng dài bắn cùng lúc vào những cứ điểm quân sự cũng như bến tàu, phi đạo, và căn cứ hậu cần.  Trong vòng vài tiếng, hàng trăm binh sĩ bị thiệt mạng, xác nằm la liệt giao thông hào.  Trong đám người tử trận có cả ba vị tướng phó tư lệnh đảo Kim Môn.  Họ đang ăn ở nhà ăn thì bị pháo kích.  Hai ông tướng chết tại chỗ, còn một ông mang đến nhà thương thì chết.

Quân đội Dân Quốc bị hoàn toàn tê liệt, cả nhiều ngày sau vẫn không chống trả được.  Rồi Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp cho họ súng pháo tự hành cỡ nặng M55.  Thế là Dân Quốc có thể bắt đầu phản pháo và đè bẹp hỏa lực đối phương.  Sau đó Trung Quốc tuyên bố sẽ chỉ pháo ngày lẻ để dân chúng có cơ hội hồi phục.  Thật ra đó là một cách để có cơ hội dẹp bỏ vỏ đạn và vẫn tiếp tục như vậy cho tới năm 1979, khi Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu có liên hệ ngoại giao chính thức.

Sau cuộc tấn công, Gary tiếp tục theo dõi tin tức, và biết được là John Foster Dulles và Tưởng Giới Thạch vừa mới họp nghị kín để tìm cách ngăn chặn chính sách xâm lược của Trung Cộng.  Ông ngoại trưởng đề nghị sử dụng vũ khí nguyên tử.  Tưởng Giới Thạch đồng ý trên nguyên tắc, nói rằng vài quả bom nho nhỏ cũng đủ rồi.  Nhưng khi Dulles cho biết đầu đạn nguyên tử ít nhất cũng phải bằng quả bom thả trên Hiroshima và Nagasaki thì họ Tưởng hoảng hồn.  Sau lần nói chuyện đó, chính quyền Đài Bắc cho Hoa Kỳ biết họ không đồng ý với bom nguyên tử vì sợ có thể có ảnh hưởng đến Đài Loan và căn cứ quân sự Mỹ ở Đông Á.

Có một mẩu tin làm Gary ngạc nhiên.  Một số phân tách gia chính trị Đông Nam Á tin rằng trận pháo kích có hai mục đích: một để làm hỏng chính sách khuyến khích hoà bình thế giới của Krushchev vì Mao vốn hiếu chiến, chỉ muốn có dịp đánh nhau với đế quốc phương Tây; hai là để móc nối với Đài Loan--nói một cách khác, trận pháo kích nhằm là một tuyên bố chủ quyền lãnh thổ.  Nghe nói rằng khi Tưởng Giới Thạch nghe tin pháo kích liền khen Mao, “Một nước cờ tuyệt diệu!”  nói vậy vì họ Tưởng cũng không chủ trương Đài Loan tự trị mà vẫn xem mình như một lãnh tụ của toàn thể nước Tàu.  Thoạt tiên Gary không ngờ họ Tưởng có thể nói vậy.  Cả ba vị tướng tử trận trong cuộc pháo kích đều có tiếng là can đảm và có tài.  Họ Tưởng hẳn đã từng thân cận gần gũi với họ.  Thế thì tại sao có thể gọi cuộc pháo kích là “Một nước cờ tuyệt diệu!” được?  Rõ ràng là đối với vị tổng tư lệnh, cả tướng lãnh cũng có thể thí được một cách không thương tiếc.  Giống như thể Mao đưa tay ra và Tưởng đã bắt tay cảm tạ, để đảo Kim Môn sẽ là gạch nối giữa đại lục và Đài Loan.  Chỉ có lính tráng là kẻ thua thiệt.

Gary chụp ảnh tài liệu, nhất là cuộc nói chuyện giữa Dulles và họ Tưởng.  Anh muốn giới lãnh đạo Trung Quốc cẩn thận hơn trong những quyết định quân sự trong tương lai.  Phải biết lạng quạng là có chiến tranh nguyên tử dễ như bỡn.

Sau khi nói Nellie anh muốn đi Hồng Kông để gặp ông anh họ thì đầu tháng Mười Hai Gary đi.  Anh nghĩ đi là cơ quan phản gián thế nào cũng để ý nhưng tự nhủ.  “Muốn theo, cho theo.  Có gì đi về sớm cũng chẳng sao.”  nhưng không có gì xảy ra vì lúc ấy chủ nghĩa McCarthy đang bị công chúng lên án gắt gao và đi du lịch nước ngoài trở nên thông thường hơn.  Bên Hồng Kông, anh trao Bính Văn những cuộn phim.  Anh ký thác một ngàn đô vừa nhận được vào chương mục ở ngân hàng Hằng Sanh.

Cũng trong chuyến này Bính Văn đã cho anh biết về hai đứa con sinh đôi.  Nghe xong bụng anh bỗng nhộn nhạo.  Anh nhìn tấm ảnh Dụ Phong và đứa con trai con gái tươi cười nhìn ống kính mà không nói nên lời.  Vợ anh trông có da có thịt hơn xưa và hai đứa con có mắt miệng giống anh.  Thằng con trai trông gầy ốm và thấp hơn con chị, phải chi chị em đổi xác được cho nhau thì hay biết mấy.  Tấm ảnh chắc mới chụp vì trông chúng trạc độ tám chín tuổi.  Bính Văn nói chúng vừa bắt đầu đi học mùa thu năm ngoái.  Sau khi nhìn ba khuôn mặt trong tấm hình một hồi lâu, Gary thở dài nói.  “Phải chi tôi biết nàng đã là mẹ.”

Bính Văn tay nhấc tách trà Ô Long, ngón út thò ra, và nhấp một ngụm.  Anh hỏi.  “Nghĩa là sao?”

“Thì tôi đã không lấy vợ ở Mỹ.”  đôi mắt Gary trở nên mờ mịt vì đau đớn và hối hận, anh muốn nói thêm.  “Thật là một nghịch cảnh trớ trêu!” nhưng anh cố nén.  Anh nhấc tách trà lên uống như một người không hồn.  Nước trà sóng sánh, bắn những giọt màu vàng trên khăn trải bàn trắng tinh.  

“Tôi hiểu,” Bính Văn nói.  “Anh muốn có trách nhiệm với Dụ Phong và hai đứa nhỏ.  Và đó chính là lý do tại sao thượng cấp không cho phép tôi nói thật với anh--họ chỉ sợ anh lại đòi về.  Đảng và nhà nước cần anh sống trong lòng địch.”

“Họ ra lệnh cho anh dấu tôi?”

“Đúng thế, ông bạn.”

Gary chợt hiểu mình sẽ phải ở lại Mỹ còn lâu.  Không còn cách nào khác, anh nhờ bạn trông chừng săn sóc cho vợ con nơi quê nhà.  Bính Vân hứa hẹn,  “Đừng có lo, tôi bảo đảm với anh.  Đã có nhà nước lo.”  Rồi anh dùng đũa gắp miếng tôm viên thơm ngon, chấm sốt sá-tế, rồi bỏ vào mồm.

Xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx



Khi Cự Ly về lại Quảng Châu, nó gởi tôi địa chỉ email và hai tấm hình của Bản Ninh, tuy hơi mờ, nhưng đủ cho thấy nó có khuôn mặt chữ điền và tóc quăn giống bố tôi.  Tôi viết thư cho biết tôi là dì nó và mong gặp nó khi có dịp đến chơi, nhưng tôi không nhận được hồi âm.  Nó dùng account Hotmail nên không biết ở đâu, trong nước hay nước ngoài.  Chị nó cũng gởi message mà không thấy nó trả lời.   

Rồi Cự Ly nói sắp trình diễn trong một chương trình văn nghệ.  Đây sẽ là lần ra mắt đầu tiên của nàng nên tôi phải có mặt vì bố mẹ nó không có ở đó.  Tôi quyết định bay xuống ở Quảng Châu dăm ngày để nghe nó hát và để ở gần nó.  Tôi có người bạn bên Wisconsin, Stacy Gilmour, đang dạy tài chánh quốc tế tại một trường kinh doanh trong Quảng Châu và nói sẵn lòng cho tôi ở chung căn hộ hai phòng trong khu đại học.  Thế là cuối tháng Năm tôi bay về hướng Nam.

Hai chục năm trước tôi có đến Quảng Châu để tìm tài liệu khảo cứu cho cuốn sách viết về chiến tranh nha phiến, nhưng thành phố bây giờ, tuy đầy khói xe ô tô và bụi bặm, nhưng sáng sủa và phấn khởi hơn xưa nhiều.  Tôi ngạc nhiên thấy ở đây có nhiều người Phi Châu, đa số có cửa tiệm trong vùng gọi là Phố Sô-Cô-La; họ chuyên ngành xuất nhập, mua hàng Tàu, bán sang Phi Châu và Trung Đông.  Chắc họ phải thích khí hậu miền nhiệt đới mà tôi cảm thấy ngộp thở.  Chưa tới mùa hè mà buổi trưa dưới phố đã như một cái bếp chật ních.  Cự Ly gặp tôi mừng rỡ và giới thiệu tôi Ngô Bình, bạn trai của nó.  Ngô Bình là một gã con trai cao ráo, tóc dài xõa vai, ăn mặc lôi thôi, làm tôi liên tưởng đên triết gia người Pháp Descartes, tuy hắn không có vẻ thiết tha về triết lý cho lắm.  Hắn là người điều khiển và trông nom ban nhạc.  Hắn người miền Bắc giống cháu tôi, đến từ vùng Cát Lâm, gia đình định cư đây đã lâu.  Trông hắn già hơn cháu tôi nhiều, chắc mấp mé cỡ tuổi trung niên.  Hắn lái chiếc minivan màu đen trông như chiếc hòm có bốn bánh xe.

Sau khi ăn tối với hai đứa nó tại một tiệm ăn Việt Nam, nơi chúng tôi ăn món miến xào đồ biển với cải bắc thảo và ớt trái, tôi ngồi ở cái bar phía ngoài, bên giòng Châu Giang, nói chuyện riêng với Cự Ly.  Một chiếc thuyền có gắn màn ảnh ti vi khổ to dọc bên hông, phát hình quảng cáo, chạy sình sịch trong giòng nước lập lở, trong khi đó, khoảng 200 feet phía bên phải chúng tôi, một nhóm đàn ông đàn bà đang vỗ tay hát một bản nhạc Mông Cổ:  “Trời xanh có đám mây trắng/ Bên dưới đoàn ngựa phi nước đại…”  có tiếng trống đánh dồn dập xa xa như báo hiệu một chương trình trình diễn sắp có.  Phía sau lưng chúng tôi là những căn chung cư cao ốc đứng sừng sững, bóng in trên bầu trời đầy sao và lấp loé ánh điện từ những cửa sổ bé tí teo.  Không khí sực mùi chuối ủng và rung rinh với những âm thanh thoang thoảng, nghe như tiếng pháo nổ từ xa vang lại.  Hai dì cháu tôi ngồi uống trà đá nói chuyện lạm phát và bạn trai.  Tôi thú thật từng có khoảng một tá đàn ông trong cuộc đời và đã có hai đời chồng, nhưng chỉ có hai người đáng để nghĩ đến, không kể Henry.

“Thế còn chồng cũ của dì thì sao?”  Cự Ly hỏi.

“Carlos là một trong hai người đó.  Anh ấy tốt bụng, nhưng sống chung không được.”  tôi ngừng lại chỗ đó, không muốn nói thêm.

Cự Ly nói hồi học trung học được chúng bạn tặng cho hỗn danh là “con ngựa cái,” nhưng thật ra hồi đó chỉ quen có một đứa.  “Nói cho đúng, một đứa rưỡi.  Thằng thứ hai bỏ cháu cái rụp khi lên đại học.  Quen nhau không tới một niên khóa mà cháu không cho nó làm gì.”

Tôi hỏi còn thằng Ngô Bình thì sao.  “Cháu yêu anh ấy,”  nó nói tôi.

“Thế nó có yêu con không?”

“Chắc có.”

“Nó có gì mà con mê nó?”

“Khi gần ảnh, con cảm thấy tự tin và hạnh phúc.  Con thích típ đàn ông chững chạc và từng trải.”

“Nó bao nhiêu tuổi rồi?”

“Băm-tám.”

“Già hơn nhiều vậy?  Mười hai tuổi là một khoảng cách không nhỏ.”

“Đó không là vấn đề.  Vấn đề là ảnh còn có vợ và một đứa con chín tuổi.”

“Thế nó có định ly dị vợ nó không?”

“Anh ấy đã ly thân.  Họ sắp đi đến thỏa thuận rồi.”

“Có nghĩa là sao?”

“Anh ấy sắp nộp đơn ly dị.”

Tôi cảm thấy có điều gì không ổn.  “Cự Ly, trong những trường hợp này, hãy nghe theo lý trí thay vì con tim.  Con có phải là con gái mới lớn đâu.  Đừng để tình yêu làm mình mù quáng.”

“Dì nói con không nên tính chuyện tương lai với Ngô Bình?”

“Dì nghĩ nó lợi dụng con.”

“Dì sao cổ lỗ sĩ quá.  Thật ra con mới là người lợi dụng ảnh--ảnh giúp con tiến thân.  Ảnh quen biết nhiều trong giới nghệ sĩ.  Hơn thế nữa, chúng con yêu nhau.”

“Con có chắc nó yêu con đủ để bỏ vợ không?”

“Không chắc một trăm phần trăm, nhưng không thành vấn đề.  Mỗi lần anh ấy ở gần con, con thấy như anh ấy làm ơn.  Miễn sao anh ấy chịu con ở gần là được rồi. “

Ý nó muốn nói nó sẵn lòng làm một thứ “tiểu tam,” hạng đàn bà chuyên rù quến đàn ông có vợ và phá hại gia cang người ta.  Họ có nhiều biệt danh, như “hồ ly tinh,” “người thứ ba,” “nhân tình chuyên nghiệp,” “ác hoa.”  Cự Ly thú nhận có gia nhập hội Tiểu Tam trên mạng.  Phương châm của họ là “Nếu mấy bà không lo được cho chồng, thì để chúng em lo cho.”  Họ vừa có phiên họp khoáng đại vào ngày mồng 3 tháng Ba, một buổi họp bí mật mà dân “tiểu tam” từ khắp nơi trong nước về tụ hội.  Vài nàng hai mươi mấy, ba mươi mấy còn mặt trơ hơn cả.  Một cô gái trẻ post hình online và khoe sắc đẹp của mình làm “Đảng còn lung lay, huống hồ,”  hình trông cũng chả có gì là đặc biệt.  

Cự Ly là đứa con gái ngoan ngoãn, còn thằng Ngô Bình có vẻ hơi miệng mỡ.  Tôi tin là nếu có yêu và lấy người nào, thì người ấy trở thành một thứ đầu tư, vì cả hai sẽ cùng nhau xây dựng nhà cửa, gia đình, và nếu may mắn, tiền của.  Nhưng chuyện trai gái nước Tàu nó hơi kì kì.  Con trai không có nhà không có cửa thì đừng có hòng mà kiếm gái.  Ở một nơi như Bắc Kinh hay Quảng Châu, một căn hộ rộng tám trăm feet giá khoảng 300,000 đô la, nhưng lương tháng trung bình độ 600 đô la.  Cách gì mà một đứa con trai trẻ, một thân một mình, công việc trung bình, có thể mua nhà được?  Thế là đa số đàn ông không thể có bồ.  Tệ hơn nữa, đàn ông lớn tuổi, thừa tiền, dư bạc, lại chỉ thích gái hai mươi, và thế là đa số phụ nữ nghề nghiệp vững chãi cũng bị loại ra khỏi vòng chiến.  Kết quả là những thanh niên bơ vơ và không lối thoát tình dục, có thể sẽ là ngòi thuốc nổ đưa đến bất ổn xã hội.  

Buổi trình diễn văn nghệ của Cự Ly được tổ chức tại một rạp hát nhỏ gần sân vận động thành phố tối ngày hôm sau.  Hồi còn bé tôi thèm đi dự Woodstock--nơi có những siêu sao, khán giả cuồng loạn, lều chõng, xe buýt VW, thuốc, sex, tự do--nhưng bố mẹ không cho đi vì chưa đủ tuổi.  Cả hai bố mẹ tôi đều không thích loại nhạc ấy.  Tôi nghĩ mẹ tôi thuộc loại lỗ tai cây--chẳng thấy bà thích bản nhạc nào.  Còn bố tôi thì chỉ thích mỗi có Hank Williams.   Ông nói chẳng ai có cái giọng phù thủy, tự nhiên như hơi thở của Williams.  Ngoài ra Gary chỉ thích Frank Sinatra.  Và đó là lý do tại sao tôi hăm hở muốn đi nghe Cự Ly hát.

Chương trình nhỏ hơn sự mong đợi của tôi.  Mà cũng chẳng phải là chương trình của Cự Ly.  Ban nhạc của nó chỉ được chơi có 15 phút, phần còn lại do những nhóm khác đảm trách.  Rạp hát trông giống một giảng đường với 400 chỗ ngồi, nhưng chỉ ngồi hết một nửa.  Trong khi tôi đi men dọc lối đi, bức tường như rung chuyển theo tiếng nhạc nghe hơi quen thuộc--có vẻ dâm đãng, chỏi điệu, và thôi thúc.  Nhạc rock, chắc nhạc Mỹ.

Tôi vừa ngồi xuống hàng ghế thứ hai thì Cự Ly đến.  Nói nói tôi bàn nhạc tên là “Mùa Hè” do một ban nhạc Ukraine có tên the Mad Heads.

Ánh sáng tối dần và khán giả im lặng xuống.  Một anh emcee vừa béo vừa lùn mặc bộ vét sọc, cà vát đỏ chét, ỏng ẹo đi ra sân khấu.  Anh la to, “Quí bà quí ông, xin nghe đây, làm ơn!”  anh ta vỗ tay nói lại.  Khi hội trường yên ắng, anh bắt đầu giới thiệu chương trình, mà anh gọi là “Yêu Nhau Điên Cuồng,”  hứa hẹn sẽ là một đêm khó quên cho mọi người.  Khi sân khấu tối dần thì anh cũng biến mất.

Màn đầu là một ban nhạc heavy metal gồm có ba người.  Nhạc quá to, kêu rầm rầm từ đầu đến cuối.  Khán giả có vẻ ngơ ngác và không phụ họa.  Sau đó ban nhạc của Cự Ly lên sân khấu.  Nó mặc một váy ngắn màu đỏ bó sát người, stocking lưới cá, và bắt đầu quạt chả cây đàn ghi-ta điện.  Vai phải của nó có xâm hình con bướm.  Và nó bắt đầu hát, “Em đã tìm anh từ lâu/ Trong giấc mơ cũng như hoài niệm/  Anh như gần nhưng lại quá xa…”  Nó có vẻ hơi hồi hộp, hát hơi cà giựt.  Nhưng dần dần nó bắt đầu lấy thêm can đảm.  Âm hưởng có vẻ như nhạc rock, không có gì đặc biệt, nhưng lời nhạc khá hay, chứa nhiều cảm tính.  Giọng nó bắt đầu khàn khàn khi gào lên, “Em sẽ chẳng nói câu giã từ/  Sẽ không giã biệt.”  Khán giả cảm động ra mặt, nhất là người trẻ, và họ bắt đầu vỗ tay phụ họa.  Lắm người đứng lên lắc lư theo điệu nhạc và múa tay trong khi những tia sáng nhiều màu sắc bắn dội trên đầu.  Đến lúc này thì Cự Ly và ban nhạc đã có hứng và bắt đầu chơi xuất thần.   Tôi kể ra cũng phục.  Trên sân khấu, cháu tôi như bạo dạn hơn ngoài đời.  Ở khía cạnh đó, nó giống như ông ngoại nói, bề ngoài tuy nghiêm trang nhưng trong lòng lại sôi nổi.    

Hai nhóm khác lên sân khấu sau đó, nhưng cả hai đều không bằng ban của Cự Ly.  Một cặp thanh niên nhảy break-dance, nhưng vừa không đúng nhịp, lại không đồng đều.  Khi một đứa làm xong đứng dậy thì thằng kia vẫn còn quay tít trên sàn như con vụ.  Kế tiếp là màn múa sexy-- bốn đứa con gái mắt mũi tô đen, đi guốc cao gót, áo tắm hai mảnh, lắc mông lắc đít trên sân khấu.  Tay chúng múa máy như đang đấu quyền, rồi thỉnh thoảng lại đá chân lên cao, để lộ những cặp đùi trắng hếu.  Có tiếng la to.  “Cởi hết ra!”  Tôi để ý thấy mặt mũi mấy con bé cứng như gỗ tuy điệu bộ cố tình ra vẻ gợi cảm.  

Rồi anh emcee lại bước ra sân khấu, tuyên bố, “Các bạn thân mến, như đã nói, chương trình tối nay có chủ đề “Yêu Nhau Điên Cuồng,” và màn cuối sẽ do hai nghệ sĩ trình diễn đặc biệt.”

Đèn sân khấu tối mờ và người ta xì xào mong đợi.  Khi đèn sáng thì thấy một cặp trai gái, chỉ mặc có quần áo lót màu đỏ, đang làm tình trên một tấm nệm lớn trên sân khấu.  Đứa con gái ngồi trên đùi, quay đít lại mặt thằng con trai, rồi trút bỏ xú chiêng, vất xuống sàn.  Rồi cô ả nhấp nhô mông đít trong khi cả hai rên xiết ồn ào.  Rồi chúng thay đổi vị trí-- đứa con gái quì xuống chổng mông, trong tư thế sẵn sàng đón nhận.  Vừa lúc ấy thì một toán công an xuất hiện.  Họ chạy ào lên sân khấu, lôi cặp trai gái đứng dậy.  Một người công an tát vào mặt đứa con trai rồi đấm vào bụng nó.  Hắn ôm bụng lăn xuống sàn.  Sau đó họ còng cả hai đứa rồi giải chúng ra hậu trường.  Tuy đau nhưng đứa con trai vẫn hô hoán, “Tự do nghệ thuật muôn năm! Đả đảo chính sách đàn áp!”

Cự Ly sợ gần muốn khóc.  Tôi choàng tay ôm vai cố trấn tĩnh nó.  Ngô Bình chạy vội lên sân khấu tìm thằng emcee yêu cầu giải thích.  Tại sao không ai bảo trước sẽ có một chương trình quái gở như vậy? Ai lại đi mời hai đứa quái gở đó lên để làm trò tồi bại trước công chúng?  Tôi dắt Cự Ly ra khỏi rạp hát rồi gọi tắc xi đi về.

Chúng tôi đi về căn hộ của Stacy vì sợ công an sẽ tìm đến phòng Cự Ly.  Bạn tôi đã đi chơi với sinh viên, nên tôi dìu Cự Ly xuống ghế phòng ăn rồi đặt ấm nước sôi lên bếp.  Nó vẫn choáng váng, nói đi nói lại,”Thế nào họ cũng bắt cháu về bót.  Dì ơi, chết cháu rồi.”  

Sau khi uống vài hớp trà thạch lựu thì nó có vẻ bình tĩnh hơn.  Nó hỏi tôi màn trình diễn của hai đứa đó có phải là nghệ thuật không.  “Dĩ nhiên là không,”  Tôi nói. “Không biết bao nhiêu người làm chuyện ấy hàng ngày.  Hành động làm tình là chuyện tự nhiên hàng ngày, nhưng không phải là nghệ thuật.”

“Vậy thì công an bắt là đáng đời hả?”

“Dì không nghĩ tội ấy phải bỏ tù.  Chỉ nên khép vào tội công xúc tu sỉ thôi.”

Càng nói thì Cự Ly càng thêm rối trí.  Nó bắt đầu gục đầu vào ngực tôi khóc nức nở.  Tôi vỗ về nó, an ủi.  “Dì không để họ bắt con đâu.  Dì sẽ ở lại đây cho đến khi nào an toàn rồi mới đi.”

Nó ôm chặt lấy người tôi.  “Dì Lilian ơi, dì tốt với con như dì là mẹ con.”

Tối hôm đó tôi bắt nó ngủ lại chung phòng với tôi.  Sáng hôm sau Ngô Bình ghé lại, nói hai đứa “nghệ sĩ trình diễn” đó là một cặp vợ chồng nên tội cũng nhẹ đi.  Mỗi đứa bị nửa năm cưỡng bách lao động, còn thằng emcee béo thì bị thôi việc.

No comments:

Post a Comment