Friday, February 24, 2017

Bản Đồ Của Sự Bội Phản 1980--Hết

1980

Năm 1975, Mao có lần quát lũ cận thần chỉ biết láo khoét và cãi nhau, “Đéo mẹ, Bạch Cung của thằng Nixon có gì ông cũng biết hết mà chuyện nhà thì ông lại mù tịt.”  Tin này lộ ra làm giới tình báo Mỹ thắc mắc không hiểu.  Có thật vậy không?  Hay Mao lú lẫn nói cho sướng miêng mà không biết Nixon đã từ chức rồi?  Hay chính quyền Mỹ thực sự đã bị xâm nhập?  Làm gì có chuyện đó.  Nhưng không có lửa, sao có khói?  Ngay cả nếu lời Mao nói chỉ có một phần sự thật thì cũng có nghĩa là lũ Tàu Cộng đã len lỏi vào đường dây thông tin của Bạch Cung.  Thế là CIA bắt tất cả những nhân viên nào có dính líu tới tài liệu mật phải trả lời máy nói dối để coi xem có lòn ra gián điệp hay không.  Không còn cách nào khác, Gary phải làm theo các đồng nghiệp.  Sau cả chục năm, Gary đã trả lời nhiều lần, và lầ̀n này cũng qua được.  Vậy mà vẫn run.   Vừa tháo dây điện ra là mồ hôi anh toát dầ̀m dề, chỉ sợ bị phát hiện và đuổi sở.  

Từ khi moi được 70 ngàn của Trung Quốc, Gary lo không biết thượng cấp nghĩ gì.  Anh chỉ sợ họ hết tin anh.  Họ gởi tiền vì tưởng anh còn làm cho CIA nhiều năm nữa.  Nhận được tiền xong là anh nộp đơn xin về hưu sớm.  Chắc họ đâu có ngờ.  Có thể nghĩ họ sẽ anh đã bị hủ hóa bởi xã hội và lội sống tư bản, xem tiền hơn hết.  Có thể đó là lý do tại sao anh gởi đơn xin hồi hương đã lâu mà không nhận được trả lời.  

Trong khi đó bệnh tiểu đường của Gary mỗi ngày một tệ hơn.  Anh lúc nào cũng thấy khát, phải uống nước tối ngày.  Và cứ mỗi tiếng lại đi đái.  Ở sở làm anh chóng mặt và chậm chạp hẳn đi.  Lái xe đi làm về mà chỉ sợ ngủ gục.  Thế nhưng tối lại không ngủ được, mỗi tối chỉ chợp mắt được hai ba tiếng.  Bác sĩ viết toa cho insulin, nhờ đó đỡ nhiều--chích vài lần thì hết chứng nhức đầu, chân bớt ngứa, và ăn uống biết ngon hơn.  Kể từ đó đi đâu anh cũng mang theo kim chích và vài tuýp insulin.  Anh đề cập đến chuyện có thể sẽ về hưu cùng với Thomas và đồng nghiệp khác, và ai cũng để ý thấy vẻ mệt mỏi của anh.  Tuy cần người có khả năng ngôn ngữ nhưng với CIA thì chuyện ấy không thành vấn đề.  Thế nhưng anh lại không quyết định được bởi vì chích insulin có vẻ công hiệu và vẫn chưa nghe thấy tin tức gì từ phía Trung Quốc.

Anh cũng bàn với Suzie, nàng khuyến khích anh về đoàn tụ với gia đình vợ cả.  Nàng nghĩ anh nên bỏ nghề gián điệp càng sớm càng tốt để khỏi bị nguy hiểm.  Nàng còn nói có thể rồi sẽ nghỉ làm về Đài Loan ở, và nếu vậy, có thể thỉnh thoảng sang thăm anh vì bây giờ công dân Mỹ có thể sang tàu chơi không có trở ngại.  Lời nàng nói càng làm anh muốn nghỉ việc CIA.

Cuối cùng, cuối tháng Bảy 1980, Bắc Kinh trả lời, nói không được về hưu sớm.  Họ khuyên anh ở lại làm cho CIA càng lâu càng tốt.  Họ nói bên Hoa Kỳ phương tiện y khoa và nhà thương tốt nhất, và tiểu đường không phải bệnh nan y, cứ kiêng cữ ăn uống và dùng insulin là được.  Anh mới có năm mươi sáu, còn phải làm cho CIA lâu dài.  Đồng thời họ sẽ dàn xếp cho việc anh trở về luôn.  Họ cũng muốn anh về quê hưu trí, nhưng anh phải cho họ thời gian để tìm người thay thế, tốt nhất là chính  anh phải tìm người chiêu dụ trong CIA.  Giọng điệu họ có vẻ biết điều và chắc nịch.  Gary hối hận đã xin về hưu.  Để chuộc lỗi anh sẽ phải cố gắng chịu đựng thêm vài năm nữa.

Nhưng hồi này anh nhớ nhà nhiều hơn.  Anh cứ hay thơ thẩn nghĩ đến một nhà tắm công cộng ở tỉnh nhà, nơi mà ba chục năm trước đâu anh thường hay quấn chiếc khăn tắm ấm áp nằm chợp mắt sau khi tắm nước nóng.  Khi thức giấc anh sẽ uống ngụm nước trà hoa nhài do một thằng bé mang ra và nói chuyện tầm phào với một hai thân hữu.  Phải chi anh có thể nằm trong hồ bơi bốc khói rồi nằm dài trên băng ghế, chẳng phải lo lắng sự đời.  Anh biết những nhà tắm chắc không còn nữa nhưng vẫn không thôi mơ mộng.  Đồng thời hình ảnh quê nhà một ngày một thêm mờ mịt, không còn là làng cũ hay phố cũ mà là một nơi mơ hồ nào đó bên Trung Quốc.  

Anh hoàn toàn không hề hay biết là kể từ khi số tiền đáng kể được chuyển về từ Hồng Kông thì FBI đã bắt đầu theo dõi anh.  Họ bắt đầu một kế hoạch điều tra đầy đủ và những điều phát hiện đã giúp họ vỡ lẽ:  Giờ thì họ biết câu nói của Mao không phải chuyện tào lao.  Tên gián điệp trong bóng tối đã để lộ hình tích.  Họ chĩa mũi dùi vào Gary Thượng, họ theo dõi anh sát nút, thư từ điện thoại và biên lai đều bị kiểm soát.  Họ còn cho gắn máy ảnh lén ở nhà người hàng xóm đối diện, trên căn gác họ mướn.  Càng theo dõi lâu họ càng không ngờ phong cách của anh có thể giản dị và thoải mái như vậy.  Có nhiều cái anh làm như kẻ không chuyên nghiệp.  Mấy tên gián điệp dám đi sang Đông Á hàng năm và viết thơ bình thường cho người liên lạc.  Việc anh chẳng thèm dấu giếm cho thấy anh là một tay gián điệp siêu hạng, đã có thể qua mặt ra-đa cả hàng ba thập niên.  Họ đi đến kết luận phải chặt anh ngay lập tức; những thiệt hại anh đã gây ra thật không thể tưởng tượng được.  Nếu không làm ngay, Gary Thượng có giấy thông hành Hoa kỳ nên có thể chạy sang ngoại quốc ngay nếu biết mình bị lộ.  Anh cũng có thể chạy vào tòa đại sứ Trung Quốc.

Họ nhận được sự chấp thuận của Bộ tư Pháp để “phỏng vấn” nghi can mà không không phải trình báo CIA, mà họ sợ có thể gân cản trở vụ điều tra.  Một buổi chiều tháng Chín, ba nhân viên đến nhà họ Thượng, Gary ra mở cửa.  Vợ anh đang ở bên Seattle thăm bà chị vừa mổ mắt cườm, và con gái anh đang đi học chương trình cao học năm thứ nhất tại đại học Boston.  Gary có vẻ bình tĩnh, thản nhiên mời họ vào, như đã chờ sẵn.  Chắc anh phải biết họ đã có đủ bằng chứng, và đây là giờ phút cuối cùng phải đối diện, một cảnh tượng anh đã nghĩ đến không biết bao lần nên gần như quen thuộc.  Cũng may không có ai ở nhà.  Anh dẫn ba người vào phòng ăn, mời họ ngồi, còn anh ngồi đầu bàn.  Trông anh có vẻ hiền lành nhưng không chút sợ hãi.

Một người bắt đầu cuộc “phỏng vấn”, họ nói năng lịch sự như nói chuyện với thượng cấp.  Nhưng trước khi trả lời, Gary nói, “Tôi sẽ khai hết sự thật với một điều kiện.”  Đó không phải là một đòi hỏi hay yêu cầu, như anh đã biết chắc phải nói chuyện như vậy.

“Điều kiện gì?”  người đàn ông mặt đỏ hồng hỏi.  

“Gia đình tôi và Suzie Siêu, bạn gái tôi, hoàn toàn không biết gì về chuyện tôi làm.  Xin để họ yên.”

Họ nhìn nhau.  Người mặt đỏ, chắc hẳn là xếp, mỉm cười, những ngón tay mập mạp gõ cạnh cái máy thâu âm bỏ túi trên bàn.  Ông nói với Gary, “Miễn sao anh hợp tác thì chúng tôi sẽ để họ yên.”

Sự đồng ý của họ càng làm anh tin tưởng họ đã có đầy đủ bằng chứng, bởi họ tin là gia đình anh không biết gì, và Suzie không hề dính líu tới hoạt động gián điệp của anh.

Và thế là cuộc thẩm vấn bắt đầu và kéo dài bẩy tiếng đồng hồ, có nghỉ để ăn tối. (Sau khi hỏi Gary thích ăn gì, họ cho gọi thức ăn nhà hàng Tàu món gà rang mè, đậu hủ ma bà, và hai món đồ biển, cộng thêm một đĩa bát bửu.  Tuy là người mắc bệnh tiểu đường nhưng Gary muốn ăn một bữa cho thỏa thê, vì nghĩ sẽ không còn dịp ăn thức ăn Tàu nữa.)  Câu trả lời của anh rõ ràng và thẳng thắn đến độ mấy anh FBI cũng không ngờ.  Anh đâu biết họ chưa đủ bằng chứng để truy tố anh, một phần vì một nhân viên đã nói dối là họ đã theo dõi anh nhiều năm.  Mặt khác, Gary chưa bao giờ được huấn luyện làm gián điệp nên không biếc cách lợi dụng luật pháp bảo vệ.

Khoảng mười giờ tối thì cuộc thẩm vấn chấm dứt, và nghi phạm đưa tay cho còng.  Họ chất anh lên xe đưa về nhà tù Arlington.  Từ đó họ đi Baltimore để bắt cha Murray nhưng ông không có nhà.  Tất cả đồ đạc trong nhà cha đều ngăn nắp, ấm trà vẫn còn ấm, nên họ ngồi đợi ông trở lại.  Họ đợi hơn một tiếng rồi mới biết là ông đã tẩu thoát.

Luật sư  của Gary khuyên anh nên nhận tội, Nellie cũng khuyên anh làm vậy để có thể nhẹ tội, nhưng anh không chịu, một mực muốn ra tòa, bởi anh tin là anh đã phục vụ cho cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ.  Cũng có thể anh đã hy vọng là bồi thẩm đoàn không tuyên án được, cho Trung Quốc có đủ thời gian để cứu anh.  Bồi thẩm đoàn, gồm bảy người đàn bà và năm người đàn ông được chọn, và Gary nhất định tranh cãi, không để tránh án chung thân mà để có được công lý mà anh tin anh xứng đáng được hưởng.  Ai cũng thấy là anh hoang tưởng nhưng không ai bảo anh được.

Vụ xử kết cục một cách thảm hại.  Anh bị buộc tội làm gián điệp cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, làm nghề bán tin lấy tiền.  Sự phản bội của anh đã gây ra nhiều tai hại cho nền an ninh quốc gia và đưa đến cái chết của nhiều người.  Không thể nào biết được anh đã chuyển bao nhiêu tin tức bí mật cho Tàu và ảnh hưởng lâu dài sẽ như thế nào.  Gary chối bay hết, anh nói anh là người ái quốc, yêu cả hai nước Hoa Kỳ và Trung Quốc.  “Cả hai như là cha mẹ của tôi,” anh nói.  “Là phận con, tôi không thể yêu nhiều yêu ít.  Đúng, tôi quả có đưa tin cho Trung Quốc, nhưng tôi làm vậy để giúp bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.  Ngược lại tôi đã thu thập không biết bao nhiêu là tin tức từ Trung Quốc bằng cách đọc báo Tàu và phúc trình cho Hoa Kỳ.  Lắm khi tôi làm hơn sáu chục tiếng một tuần.  Tôi đã nhận được nhiều bằng tuyên dương.  Tôi là người Mỹ và tôi yêu đất nước này như tất cả quí vị.”

Khi tới phiên lên làm chứng, George Thomas nói, “Tôi thấy Gary Thượng quả có giúp Hoa Kỳ tái thiết lập quan hệ với Trung Quốc. “  Trong khi nói thì ông ta tránh nhìn về phía Gary.

David Shuman, khuôn mặt vẫn bụ bẫm tuy đã bốn mươi ba tuổi, nói anh nghĩ Gary là một người yêu nước.  Anh nói, “Tôi nhớ ngày Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Gary Thượng đã lăn đùng trong văn phòng khóc nức nở như một đứa bé.  Anh ấy còn buồn hơn chúng tôi.  Quí vị cứ đi hỏi bất cứ ai làm việc trong CIA, họ sẽ nói anh ấy là một người lịch sự, dễ thương và thân thiện.  Dĩ nhiên bây giờ nhìn lại, tôi nổi da gà khi nghĩ là có một tên cộng sản nằm ngay trong hàng ngũ chúng tôi.”

Bồi thẩm đoàn có vẻ không tin lời khai, có người lắc đầu, cau mặt, hay trợn mắt nhìn mấy ông nhân viên CIA.  Luật sư bên công tố, một người đàn ông trạc tuổi trung niên có lông mày thưa thớt và đôi mắt như mắt mèo, bắt đầu đứng lên chất vấn bị cáo.  “Ông Thượng, có đúng là ông đã cung cấp hơn một chục tên người tù binh chiến tranh Trung Quốc muốn quay về phe quốc gia năm 1953 không?”

“Cái đó tại vì---”

“Có hay không?”

“Có.”

“Thế họ trả ông bao nhiêu tiền?”

“Năm trăm đô la.”

“Vậy thì chỉ vì năm trăm đồng bạc mà ông đã bán hơn một tá mạng người cho Trung Cộng?”

“Chuyện không phải như vậy.  Tôi hoàn toàn không biết hệ quả của nó.  Tôi tưởng họ rồi cũng sẽ đi sang Đài Loan.  Đó là lần đầu tiên tôi chuyển tin cho Trung Quốc.  Có thể tôi mắc lỗi vì rủi ro.  Nhưng sau này khi biết số phận của những người ấy thì tôi không làm như vậy nữa.”

“Vậy thì ông có biết họ bị xử tử?”

“Có, sau này tôi có biết.”

“Ông Thượng, ông có cho Trung Cộng biết kế hoạch liên lạc và mật danh của các đặc vụ được gởi sang để phá hủy nhà máy chế tạo nguyên tử năm 1965 không?”

“Có, tôi có.  Tôi cố tình làm vậy để phá hủy công tác của họ vì tôi chỉ sợ sẽ đưa đến Thế Chiến thứ Ba.  Làm vậy chẳng được lợi lộc gì mà còn tổn thất nhân mạng và tiền bạc.  Tôi hoàn toàn không cảm thấy mình có tội chút nào trong vụ ấy.”

Trong phòng xử, kẻ cười, người vỗ tay.  Ông chánh án mặt đỏ, vểnh râu, nện búa chan chát để lấy lại trật tự.  Khi phòng xử yên lặng trở lại, người công tố viên bắt đầu hỏi về những dữ kiện về hỏa tiễn và máy bay mà bi cáo bị buộc tội đã ăn cắp.  Gary trả lời bằng một giọng ngạo mạn, “Tôi chỉ quan tâm đến những tin tức có giá trị chiến lược.  Tôi đâu phải là một thằng ăn cắp vặt.”

Cả phòng xử chợt im lặng một cách ngột ngạt.  Ngoài trời đang mưa nặng hột, những giọt mưa chảy dài xuống cửa sổ, xa xa hàng cây trắc bá oằn người trong gió.  Bồi thẩm đoàn nhất trí đạt đến bản án có tội một cách dễ dàng.  Quan tòa lên án Gary 121 năm tù ở và hơn ba triệu đồng tiền phạt.  Các bồi thẩm cũng cảm thấy phẫn uất vì đám đồng nghiệp làm ở CIA có vẻ bênh vực cho thằng gián điệp đỏ mà không đếm xỉa gì đến sự thật hay quyền lợi quốc gia.    Một người bồi thẩm, một bà da đen có lông mày nhướng cao, còn nghi ngờ có sự đồng lõa.

Bị cáo có vẻ điềm tĩnh, khuôn mặt lãnh đạm, mắc dù mí mắt sắp sụp xuống vì mệt mỏi và màng tang nhức như búa bổ.  Anh cố cắn môi để khỏi bật khóc.  Tất cả chung quanh bỗng mờ tít.  Anh cúi tới trước lấy hai tay ôm đầu.  

Một lát sau khi một nữ phóng viên hỏi Gary có muốn nói gì vớ chính quyền Trung Quốc hay không, anh la to, “Tôi xin Đặng Tiểu Bình lên tiếng can thiệp cho tôi.”

Những lời này được đăng trên nhiều tờ báo lớn ngày hôm sau.  Nhưng trong một cuộc họp báo, vị Đại Sứ Trung Quốc tại Hoa Thịnh Đốn chối bay liên hệ của Bắc Kinh với Gary Thượng, ông nói, “Tôi xin lập lại, tôi chưa bao giờ nghe đến tên của người này.  Trung Quốc không có gián điệp ở Hoa Kỳ.  Tất cả những gì người ta tố cáo chỉ là những lời đồn đại đầy ác ý của bọn người chống đối chính phủ chúng tôi.”


Xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx


“Thế dì có vào thăm ông ngoại trong nhà tù không?”  Ben hỏi tôi, tay đút trong túi quần jeans.  Chúng tôi đang thả bộ trên Bãi Wollaston Beach.  Những tòa nhà chọc trời hướng tây bắc bị sương mù che phủ.  Một chiếc máy bay đang từ từ hạ cánh xuống phi trường Logan.

Tôi nói, “Dì có vào thăm một lần, cuối tháng Mười Một năm ấy, nhưng đã phải đi vội trở về BU.  Lúc ấy dì đang dạy học.  Bố không nói gì nhiều vì có cảnh sát gác bên cạnh và hai bố con bị ngăn cách bởi lớp kiếng và kẽm sắt.  Ông cứ nói đi nói lại ‘bố xin lỗi con’ trong khi nước mắt chảy thành dòng.  Cả buổi viếng thăm, dì như người bị say thuốc, chẳng nói được lời nào.  Đó là lần đầu tiên dì thấy ông khóc, cuối buổi viếng thăm, ông hôn gió một cái rồi cố gượng nở nụ cười.  Mẹ của dì đến thăm thường xuyên để xem chừng xem ông có đầy đủ thuốc men hay không và yêu cầu họ chữa bệnh viêm nướu răng của ông.  Phải chi dì có thời gian để đến thăm ông lại.”

“Chắc ông ngoại chết thảm lắm.”

“Khi nghe tin ông tự vẫn, dì đau buồn không tả.  Dì bị suy sụp thần kinh và kể từ đó hễ thấy một người đàn ông có tuổi là dì lại chảy nước mắt ra.”

Ben đọc thấy là là Gary lấy bịch rác trùm lên đầu rồi dùng dây giầy cột chặt lại.  Ông không đi ăn sáng để khỏi vãi phân bẩn thỉu.  Ông nằm trên cái giường trong căn phòng biệt giam và chết mà không có một tiếng động.  Tôi nói cho Ben nghe về cái chết của ông ngoại nó tối hôm qua sau khi Ben thú nhận mình làm gián điệp cho Tàu, tuy chỉ là hạng tép riu.

Nước thủy triều xuống làm cả vùng vịnh phẳng phiu.  Ben nói tiếp,” Điều làm con xúc động nhất là câu ông nói với người thẩm phán công tố: ‘Tôi không phải là một tên ăn cắp vặt.’  khi đọc đến đó con đã bật khóc.  Con mới là một thằng ăn cắp vặt.  Gần đây con mua được một cặp kính nhìn ban đêm vừa phát cho lính thủy quân lục chiến, một tập chỉ dẫn F-18, một danh sách tần số ra đi ô, và vài thứ khác.  Con chỉ là một thằng ăn cắp vặt.”

“Ở một khía cạnh nào đó, Gary là một người kiêu ngạo.”

“Nếu không vậy làm sao sống nổi?  Một người gián điệp phải tự thuyết phục tầm quan trọng của công tác để còn có thể tiếp tục đối diện với hiểm nghèo.”

Lời Ben nói nhắc tôi nhớ lại một câu trong nhật ký của Gary mà đã làm tôi thắc mắc một thời gian lâu:  “Đối với tôi, không gì đẹp bằng lòng hy sinh.”  Bố tôi có vẻ tin vào sự cao cả của hành động ông làm.  Tuy rất mực thông minh, nhưng ông sống trong mây mù, chịu ảnh hưởng bởi một ý niệm lâu đời không thể lý giải được.  Thật vậy, một cái nhìn hay ảo tưởng cao cả có thể khiến cơn đau đớn có thể chịu đựng được.

Xa xa dưới bãi biển có tiếng một đứa bé gái kêu lên.  Nó cầm một cái thùng màu vàng rực rỡ trong có cái xẻng và đang đi chập chững về phía mẹ nó.  Mặt trời đã lộ diện làm bãi cát đổ sang một màu trắng xóa.  Ben nói tiếp, “Con nghĩ ông đầu hàng quá dễ dàng.  Thế nào mà Trung Quốc chẳng tìm cách xin cho ông được hồi hương.”

“Thế thì con ngây thơ quá,” Tôi nói.  “Ông Đại Sứ Trung Quốc chẳng chối bai bải là chúng tôi không có dính dáng gì tới hắn sao.”

“Nhưng đó không thể là quyết định tối hậu được.  Ông ngoại con chức không thua gì ông đại sứ, có còn hơn nữa không chừng.  Ông ta làm gì có quyền quyết định số phận của Gary.  To tiếng chối bai bải có thể chỉ là một phản ứng thư lại bình thường.  Một khi dư luận lắng xuống, không ai để ý, có thể có cách ra khỏi tù về Tàu.”

“Nhưng đại sứ là đại diện quốc gia.”

“Con nói dì nghe, một thằng tép riu như con còn có lối thoát khi cấp bách nữa là.  Trường hợp ông ngoại con không thể giản dị như vậy được.”

Tôi định hỏi Ben làm cách nào để thoát thân, nhưng lại thôi.  Một cặp hải âu lông đốm bay khỏi cạnh ngọn sóng nhỏ, tiếng kêu phát ra chí choé.  Chúng lượn lơ lửng trên không, cánh dang bất động.  Tôi nói, “Có thể vụ này bà Susie Siêu biết nhiều hơn.  Khi nói chuyện với bà mùa đông năm ngoái, bà nói ghét cộng sản vì đã bỏ rơi ông ngoại con.”

“Bà ấy là người con muốn gặp.  Bà có vẻ trung thành với ông cho đến lúc cuối.”

“Có thể dì sẽ phải đi gặp bà ta một lần nữa.  Con có muốn đi cùng không?”

“Chừng nào dì định đi?”

Khi nghĩ lại tôi tin FBI có thể đến túm thằng Ben không biết lúc nào, nên tôi nói,  “Càng sớm càng tốt.  Để dì gọi cho bà.”

Tôi móc cái điện thoại di động trong chiếc ví da lộn bé tí và bấm số bà Suzie.  Chuông kêu ba tiếng thì có tiếng bà, hơi ngập ngừng như vừa thức dậy.  Tôi nói, “Dì Suzie, con là Lilian đây.”

“Lilian nào nhỉ?”

“Con gái của Gary.”

“Ồ, thế mà tôi tưởng cô quên tôi rồi chứ.”

“Dì khoẻ không?”

“Thì cũng nhàng nhàng.  Còn đi lại là vui rồi.”

“Dì này, cháu của con là cháu ngoại của Gary, con với nó muốn gặp dì.  Tụi con đến Montreal gặp dì được không?”

“Được, lúc nào đến cũng được.  Cô nói có thằng cháu, nó người Tàu hả?’

“Dạ.  nó từ Trung Quốc sang.  Tối nay nói chuyện nhiều hơn nha?”

“Được rồi.   Độ chín giờ gọi.”

Tôi mừng là bà đã đồng ý.  Cất điện thoại đi, tôi quay lại Ben.  “Suzie có thể gặp mình lúc nào cũng được.  Hôm nay thứ Sáu.  Hay là mình đi Montreal ngày mai?  Con nghĩ sao?”

“Con không bay được.  Lên máy bay FBI biết ngay.  Mình nên lái xe.”

“Ý kiến hay, nhưng bộ không cần hộ chiếu khi qua biên giới sao?”

“Có thẻ xanh được rồi.”

“Vậy thì lái.”

“Nên mướn xe hay đi xe con?  Con vừa cho thay máy.  Chạy như xe mới.”

“Đi xe con cũng được.  Chắc sẽ an toàn.”

Trên đường đi bộ về chỗ ở, Ben nói nhiều hơn về việc nó vào nghề phản gián. Nó nói, “Đa số bạn học con ghi tên học trường phản gián ở tỉnh Lạc Dương vì cha mẹ ông bà từng có trong nghề.  Họ gọi chúng con là thành phần ưu tú của thế hệ, được Đảng tuyển chọn, tụi con thề trung thành với quốc gia và sự nghiệp cách mạng.  Giờ nhìn lại thì thật tình thấy hơi giả dối, làm như là  đứa nào cũng sẽ là vĩ nhân tới nơi không bằng.  Các lãnh đạo Đảng gọi chúng con là những “nòng cốt của quốc gia.”

“Họ chọn con vì ông ngoại là gián điệp hàng đầu, như thể con cũng phải giỏi lắm.  Nhưng con không học giỏi.  Con thuộc loại dưới mức trung bình.  Bắn súng đã không giỏi mà bơi lại không nổi hai dặm.  Đánh tay không thì bao giờ con cũng thua.  Nhưng con có khiếu về ngôn ngữ, tiếng Anh con nhất lớp.  Con có thể nói làu làu những gì học ngày hôm trước và có thể nhái giọng như một người nói bằng bụng.  Hơn thế nữa, con có tài cư xử.  Con có thể bắt chuyện được với người lạ.  Con có hỗn danh là Keo Siêu Dính vì có khả năng móc nối người khác.  Trong thời gian huấn luyện, mỗi khi tụi con được gởi đi truy tầm tin tức từ người dân tỉnh nhỏ, thế nào con cũng được nhiều tin tức có giá trị hơn các bạn.  Các thầy phục lăn.  Con cũng giỏi phân tích tin tức và thấy được ý nghĩa từ những chi tiết vụn vặt.  Đó là lý do tại sao họ tiếp tục huấn luyện con sau khi đã ra trường, để chuẩn bị gởi con ra ngoại quốc.  Họ cho con ghi danh chương trình cao học và con có bằng Thạc Sĩ khoa Kỹ Thuật.”

“Thế họ nói con gì về ông ngoại con?”  Tôi hỏi.

“Họ nó ông là một liệt sĩ đã bỏ mình trong khi thi hành công tác, nên con có nghĩa vụ phải đi theo bước chân ông.”

“Giờ biết rồi, nhìn lại, con có thấy oán giận không?”

“Một chút.  Nhưng họ cũng đã đào tạo con thành một người có khả năng hơn, và kể ra cũng khấm khá và có đặc quyền.”

“Thế con có biết con đang nguy hiểm không? Rằng FBI có thể chụp con bất cứ lúc nào không?”

“Con biết thừa, sẽ hành động sớm.”

“Nhưng con đã nằm yên lâu quá rồi.  Sonya có biết nghề thật của con không?”

“Có thể nó cũng đoán được, nhưng con không nói gì cho nó nghe.”

“Con sẽ phải quyết định nhiều thứ.  Dì nói thật đó, chẳng có con gái nào chịu nổi cái kiểu thụ động của con đâu.”

“Thật ra con đã xin phép cấp trên để lấy nàng, có con có cái và sống bên Mỹ một thời gian, nhưng họ không muốn con gắn liền với chỗ này.  Con cái đẻ ra sẽ thành công dân Mỹ, và cái đó có thể cột chân con vào nước Mỹ.  Cấp trên khiển trách con đã không chế ngự được dục tình và ra lệnh cho con bắt Sonya phá thai.  Con đang cố tìm ra một giải pháp.  Con đâu bắt nó làm được cái gì.”

Khi đến chỗ nó ở, Sonya đang nấu spaghetti, dùng cái thìa gỗ khuấy khuấy sốt thịt bò xay và ô liu đen.  Nó đang mặc một cái áo ngủ màu cà làm áo bầu, tuy bụng chưa thấy rõ.  Tuy nở nụ cười, làm nổi bật cái mụn trứng cá trên mũi, nhưng khuôn mặt tròn dình của nàng đầy vẻ lo lắng, mắt hơi có quầng thâm, nhưng trông nó vẫn xinh xắn, nhất khi nhìn nghiêng.   Nó đang ốm nghén và lỗ mũi nghẹt cứng. Tối hôm trước nó đã thú nhận với tôi, “Con không hiểu nổi anh ấy.  Anh ấy có vẻ chán chường.  Anh ấy hứa này hứa nọ, nhưng con không chắc có thể tin được.”

Nếm sốt xong, tôi nói Sonya, “Ngon tuyệt.”  rồi nói nhỏ sáng mai sẽ đi Montreal, đừng nói ai biết.

“Để làm gì?”  cô ả hỏi.

“Để gặp một người bạn cũ bố dì.  Chủ nhật sẽ về.”  Tôi vẫn nói nhỏ và nói cho nó yên lòng.  “Đừng cả lo.  Mọi chuyện rồi sẽ yên ổn.”

“Con cũng mong vậy.”  nó thở dài.  Một cái nồi khác bắt đầu sôi.  Sonya bẻ gãy bó spaghetti tóc tiên, ném vào nồi rồi bắt đầu ngoáy đều.  Tôi quay lại rửa chảo trong bồn rửa.

Có tiệm xăng kế bên, nên sau khi ăn tối tôi lấy chiếc Mustang màu đen của Ben ra đổ đầy bình.  Rồi nó tu bổ chiếc xe một hồi dưới bãi đậu xe tầng hầm.  Nó đổ một chai dầu lọc vào bình xăng, nói là mùa thu nào cũng làm vậy.  Nó cũng kiểm tra lại dầu nhớt.  Tôi bỏ hai cái áo khoác vào thùng xe vì nghe nói nhiệt độ có thể xuống thấp ngày hôm sau.  Khi trở lại apartment chúng tôi tránh không nói chuyện phản gián và chuyến đi, không phải vì Sonya mà là vì chỗ này đã bị gắn máy nghe lén.  Tôi cũng phục sự điềm tĩnh của Ben.  Nó có vẻ đã thừa hưởng khả năng chịu đựng áp lực và tình trạng không chắc chắn.  Mặc dù biết FBI đang theo dõi nhưng nó vẫn sáng suốt về mọi mặt.  Chắc nó đã được huấn luyện khá kỹ lưỡng.  Tuy phục thì phục thật nhưng tôi e nó có thể không thoát hiểm được.  Có lẽ tôi nên khuyến khích nó đào thoát xin tị nạn chính trị, như chúng tôi sẽ phải xét kỹ lợi hại của một nước đi táo bạo như vậy.  


Sau khi làm thủ tục nhập ở một khách sạn ở ngoài Montreal, tôi gọi điện cho Suzie để báo đã tới nơi.  Bà nói nhà cửa bê bối không tiện tiếp ở nhà.  Tôi mời bà đi ăn trưa ở Phố Tàu nơi bà ở.  Bà đề nghị tiệm Kim Phượng, một tiệm Quảng Đông đắt tiền, bàn phủ khăn trắng.  Chúng tôi hẹn nhau mười một giờ ngày hôm sau.  

Ở quày lễ tân, tôi tưởng Ben sẽ ngượng, không muốn ở cùng phòng với tôi, nhưng nó ngăn không cho tôi mướn hai phòng.  Nó nói, “Mướn một phòng có hai giường ngủ. Tự nhiên hơn.”  tôi mừng nó nghĩ như vậy.  Đến nửa đêm chúng tôi mới đi ngủ tuy chuyến đi kéo dài bảy tiếng có làm tôi mệt nhoài.  Chúng tôi chuyện trò về gia đình nó ở tỉnh Phúc Sơn và về bố tôi.  Tôi bắt đầu lái dần câu chuyện về tình trạng hiện thời của nó và nhắc cả đến chuyện có thể ra đầu thú với FBI.  Nó lắc đầu nói, “Dì ngây thơ quá, dì Lilian ạ.  Người Mỹ hay suy nghĩ thẳng thắn rõ ràng.  Nếu con đào tẩu thì còn gia đình con ra sao? Còn chị em con thì sao?  Chính phủ chắc chắn sẽ xiết họ, và họ sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho con.”

“Ừ nhỉ.  Vậy mà dì không nghĩ ra.”  tôi nói.

“Dì đã gặp gia đì̀nh con thì chắc cũng đã thấy họ làm ăn khá giả ở chốn khỉ ho cò gáy ấy.  Bộ dì tưởng tự nhiên mà được vậy à?  Kể từ khi con vào nghề thì đã có quý nhân phù trợ.  Nếu con phản bội quê hương thì bàn tay quý nhân sẻ trở thành gông cùm bóp nát.”  

“Thế thì con phải làm gì?”

“Đó chính là câu hỏi con nghĩ nát óc chưa ra.  Kinh doanh thương mại của con trị giá một triệu rưỡi đô la.  Đó là tiền đầu tư của Trung quốc.  Nếu con ra tự thú với FBI thì tiệm con sẽ bị dẹp, họ sẽ đổ thừa tại con.  Tệ hơn nữa, con sẽ phải cung cấp cho FBI tin tức các hoạt động phản gián của Trung Quốc, nhất là tại Bắc Mỹ.  vậy là đối với Trung Quốc, con đã mắc tội phản quốc.”

“Tại sao con không lật ngược vai trò nguyên cáo, bị cáo? Tại sao tổ quốc phải lúc nào cũng đúng?  Chẳng phải Trung Quốc đã lợi dụng cả ông ngoại con lẫn con không ngừng nghỉ hay sao? Chẳng phải tổ quốc đã phản bội con sao?”

Nó có vẻ ngạc nhiên, chân mày nhăn tít lại.  Tôi tiếp tục, “Ben, Trung Quốc đã thay đổi, nhiều người không còn phải lệ thuộc vào nhà nước để sinh tồn.  Nếu kinh tế gia đình con có đi xuống thì dì có thể gởi tiền về đều đặn.  Bây giờ con chỉ nên lo chuyện của con và Sonya thôi.”    Tôi phải nhắc đến chuyện tiền bạc để thuyết phục nó là sự sinh tồn của gia đình nó không còn lệ thuộc vào nhà nước nữa.

“Cám ơn, dì Lilian.  Nếu có dì giúp thì con không phải lo chuyện nhà.  Con sẽ tìm ra cách.”

Tôi tắt đèn một lúc lâu mà nó vẫn chưa ngủ được.  Nó lăn qua lăn lại trên chiếc giường kê sát cửa sổ, thỉ thoảng lại thở dài.  Lời hứa của tôi đã làm đầu óc nó làm việc tăng ca.

Sáng hôm sau chúng tôi trả phòng rồi lái xe vào phố.  Đi tới Phố Tàu không đến mười lăm phút.  Tôi thích Montreal ở chỗ đường phố dễ lái.  Sau khi đậu trong bãi xe bên ngoài, chúng tôi đi về hướng đường Saint-Urbain, nơi có tiệm Kim Phượng.  Vừa ngồi xuống một cái bàn trong góc thì Suzie xuất hiện, chống một cây gậy có cột sợi dây da.  Bà trông có vẻ yếu đuối và lòm khòm  hơn cách đây mười tháng, chắc mắc chứng phong thấp và rỗng xương.  Ben và tôi đứng lên, Ben kéo cái ghế và dìu bà ngồi xuống.  Tôi móc cây gậy sau ghế.  Bà lấy ra miếng Kleenex xì mũi.  Bà cười gượng làm khuôn mặt càng thêm bệnh hoạn.  Mắt bà kẻm nhẻm và mí dưới trông hơi sưng.  

Tôi nói, “Dì ốm hả, dì Suzie?”

“Không, tại thiếu cà phê.  Tôi mới bỏ cà phê.”

“Tại sao vậy?”  Tôi thầm nghĩ sống được mấy năm mà kiêng với cữ làm gì.  “Bộ dì có bồ mới hả?”

“Cái con bé này chỉ nói chuyện nhảm nhí,”  Bà cười khanh khách.  “Tôi bỏ cái món ấy lâu rồi.  Hồi còn trẻ cứ nghĩ mình sống tới sáu chục thôi.  Miễn sao sống vui là được rồi.  Nhưng khi mình càng già thì càng muốn sống lâu.  Nghĩ cũng buồn cười.”

“Chuyện tự nhiên,” tôi nói.  “Cuộc đời trở nên quí giá hơn với dì.”

“Cô này thật là thông minh.  Bởi vậy tôi vẫn thích cô hơn mẹ cô nhiều.”

Ben rót một tách trà hoa nhài và nói, “Ngoại uống cái này vào là khoẻ liền.”

Thật vậy, uống xong vài ngụm là trông bà có vẻ trở lại bình thường, ngồi xếp bằng thoải mái.  Bà nhoẻn miệng cười, những nếp nhăn bên khoé mắt nổi cộm lên cho thấy một lớp phấn dày.  Bà liếc xiên qua Ben, chớp chớp mắt, đôi mắt bồ câu trước đây giờ gần như tam giác.  “Thằng này đẹp trai như cha cô,”  bà nói.

“Đúng thế,” Tôi đồng ý.  “Nó cũng thông minh không kém.”

Chúng gọi thức ăn.  Suzie chỉ muốn một tô hoằn thánh, nói không đói, gặp chúng tôi là vui rồi.  Quả vậy, nãy giờ bà lúc nào cũng cười toe toét.  Chúng tôi tiếp tục nói chuyện.

Khi thức ăn dọn ra, tôi nói với bà Suzie,  “Con có một thắc mắc muốn hỏi dì lâu rồi.  Tại sao bố con lại giao nhật ký cho dì giữ?”

“Gary có linh tính sẽ có chuyện không hay sẽ xảy ra.  Anh ấy bảo tôi đừng nói gì khi người ta thẩm vấn.  Cứ giả ngu, chối ráo.  Anh ấy muốn tôi giữ nhật ký và không cho ai biết.  Giác quan thứ sáu của anh ấy nhạy bén lắm.”

“Bố con muốn dì giao cho con?”

“Anh ấy không nói, nhưng dì chắc vậy.  Ḷai nữa, cuốn nhật ký có thể dùng làm tang chứng nên anh ấy không muốn bị FBI tịch thu.”

“Ngoại,”  Ben nhảy vào, “có điều con không hiểu, tại sao ông ngoại con tự vẫn?  Trung Quốc phải có cách cứu ông chứ.”

“Tầm bậy! Tụi Tàu đã bỏ rơi anh ấy cái rụp.” bà nói, cái miệng xếch lên.  “Sau khi Gary bị bắt, tôi nhận được một mẩu giấy anh ấy nhờ tôi sang Bắc Kinh năn nỉ Đặng Tiểu Bình trao đổi gián điệp Mỹ lấy anh ấy.”

“Dì nhận được thơ của bố con?”  Tôi ngạc nhiên đến độ phải đặt thìa súp xuống.

“Phải rồi.  Qua đường bưu điện bình thường.”

“Làm sao ông con có thể gởi thơ từ trong tù?”  Ben hỏi.

“Tôi cũng chả biết.  Chắc phải có người trung gian dấu mang ra rồi bỏ vào thùng thơ.  Thế là tôi đi Hồng Kông ngay lập tức để liên lạc với Sở Binh Văn.  Hắn giúp tôi vượt biên giới qua Tàu.  Đến Bắc Kinh tôi gặp vài viên chức, xin gặp Đặng Tiểu Bình.”

“Có gặp được không?”  tôi hết ngạc nhiên này sang tới ngạc nhiên khác.

“Dĩ nhiên là không.  Có một thằng cha họ Đinh, làm lớn trong bộ Công An, gặp tôi trong văn phòng, nhưng năn nỉ đến mấy họ cũng không cứu Gary.”

Ben nói chêm vào,  “Chắc là Đinh Hác rồi, bộ trưởng bộ công an.  Chả nắm đầu tình báo thời tám mươi.  Thế hắn nói gì với ngoại?”

“Hắn nói nhà nước chẳng còn dính dáng gì với Gary Thượng nữa.  Với họ, Gary là một kẻ phản bội, một thằng tống tiền.  Đinh nói tôi, ‘nó vừa ăn cắp bẩy chục ngàn của ngân quỹ quốc gia.  Bẩy chục ngàn! Chị có biết tôi làm nhiêu tiền không?  Hai trăm đồng một tháng!  Có làm ba chục năm cũng chưa được!’  Một thằng khác chõ mõm vào, ‘Gary Thượng sang Mỹ làm giàu.  Nó lái xe Buick, tiền bạc rủng rỉnh, bị bọn Mỹ làm hủ hóa mẹ nó rồi nên nó tham lam như trăn đòi nuốt voi.’  Hắn còn nói bệnh tiểu đường là bệnh của bọn tiểu tư sản.  Ăn cơm hẩm với dưa chua thì làm gì có bệnh.  Nghe chúng nó nói tôi biết không còn đường nói chuyện nên tôi đòi được gặp Đặng Tiểu Bình.  Chúng nó cười vào mặt tôi, bộ khùng hả?  Đặng Chủ Tịch đời nào thèm gặp cái hạng như nhà chị.  Thế là tôi nổi cơn tam bành chửi cho tụi nó một trận.

“Thấy tôi dữ quá, thằng Đinh nói với tôi, “Này, ta bảo thật cho nghe, Đặng Chủ Tịch đã biết cả rồi.  Chủ tịch nói: “Để cái thằng ích kỷ đó ở tù mọt gông.  Ai bảo ham trung thành với cả hai nước làm gì.”  Không có hy vọng đâu.  Vô phương.’ “

“Thế dì có về nói cho bố con không?”  Tôi hỏi.

“Không.  Tôi đâu phải người nhà nên không được vào thăm.  Chắc có người chuyển tin cho anh ấy.”

“Chuyện thật khó tin,”  Ben hậm hực nói.  “Bề gì ông ngoại cũng là thiếu tướng.”

“Thiếu tướng thì cũng là lính,” tôi bảo nó.  “Lính chết cũng chẳng sao.”

“Chẳng cứ phải lính.  Ai chết cũng mặc.”  Suzie nói.

“Con có câu hỏi nữa,”  tôi nói.

“Hỏi đi.”

“Cái này hơi riêng tư, nhưng cũng phải hỏi.  Tại sao bố con mê dì dữ vậy?  Có phải tại cùng chủng tộc và văn hóa không?  Hay tại dì rành thuật ái ân?  Hay có gì khác?  Nói thật dì nghe nha, con chẳng thấy dì hơn mẹ con ở chỗ nào cả.”

Suzie mỉm cười tự mãn.  “Dì thì chả có công dung ngôn hạnh gì cả.  Mà cũng không giỏi giữ chân đàn ông đâu.  Thoạt tiên là cả hai cảm thấy có gì quyến rũ, nhưng rồi dần dà tôi với Gary hợp tính nhau.  Khi tụi này gần nhau có thể nói không ngừng nghỉ về đủ đề tài, do đó sau nhiều năm tình yêu biến thành tình bạn, mặc dù lắm khi chúng tôi cãi nhau như chó với mèo.  Hơn nữa, so với Nellie thì tôi có lợi cho ảnh hơn.”

“Lợi chỗ nào?”  tôi hỏi tuy biết chuyến đi Hồng Kông bí mật của bà.

Suzie nói, “Chú tôi trước đây là sĩ quan cao cấp trong ngành tình báo Đài Loan.  Gary có thể làm việc cho Quốc Dân Đảng bất cứ lúc nào .  Tôi khuyên ảnh làm vậy, vì nhỡ có bị chính quyền Mỹ bắt thì còn có thể nhận mình là gián điệp cho Đài Bắc.  Tội nhẹ hơn nhiều vì Đài Loan không phải kẻ thù.  Nói chung, tôi là mạng lưới an toàn cho ảnh.”

“Thế bố con có làm cho Quốc Dân Đảng không?”

“Không, không bao giờ.  Anh ấy không phải là gián điệp tam trùng.  Anh ấy không phản bội lục địa vì không muốn liên lụy đến gia đình bên ấy, và cũng vì không muốn tôi dính dáng vào cái nghề này.  Tôi cũng cám ơn ảnh.  Anh ấy không bao giờ lợi dụng tôi, lúc nào cũng là một người bạn tốt.  Một bậc quân tử.”

“Thế dì có nói chú dì nghe về chân tướng của Gary không?”

“Dĩ nhiên là không.  Họ mà biết thì sẽ báo CIA liền.  Hai đứa tôi trung thành với nhau cho đến giờ chót.  Có phục không?”

Tôi gật đầu trong khi bà gục xuống khóc nức nở.  Quay qua tôi thấy Ben cũng đang khóc sụt sùi.  “Dì Suzie,”  tôi thủ thỉ, “Cám ơn dì đã yêu bố con, đã giúp đỡ bố con.  Nhờ dì mà chúng con hiểu thêm về bố con.  Tối thiểu là bố con là một người trung thành và đàng hoàng theo kiểu của ông.”

“Tôi vẫn nhớ ảnh,”  bà nói nhỏ và lau khuôn mặt đầy nếp nhăn với một cái khăn tay đỏ, phấn son loe loét trên gò má.

Ăn uống xong xuôi chúng tôi đưa Suzie về bin đinh của bà, một chỗ ở cho người cao niên.  Rồi chúng tôi lên xa lộ số 10, đi về hướng đông.  Ben có vẻ trầm ngâm ít nói trong khi tôi lái xe.  Khi chúng tôi bắt đầu chạy bon bon trên con đường vắng xe thì tôi hỏi nó,  “Con có nghĩ lão Đinh Hác nói có lý không?  Là ông ngoại con là một người tống tiền?”

“Không.  Chỉ lấy cớ vậy thôi.”

“Tại sao?  Bẩy chục ngàn là một số tiền đáng kể đối với Trung Quốc lúc bấy giờ.”

“Trong trường hợp ông ngoại thì số tiền đó chẳng có nghĩa gì.  Nhớ Mao nói gì không?  ‘Cái thằng đó bằng bốn sư đoàn thiết giáp.’  một sư đoàn thiết giáp có hơn hai trăm xe tăng.  Một chiếc xe tăng đáng giá hàng trăm ngàn đô la.”

“Nhưng cái đó là khi Gary còn có lợi cho họ.”

“Đúng thế, chúng vắt chanh cho đến khi không còn gì để vắt.  Trường hợp của ông là một trường hợp điển hình của sự ngu dốt và thiếu tính toán.  Nhưng cũng tại ông yêu mẹ của bà mới nên cớ sự.”

“Sao con nói vậy?”

“Thì không phải ông đòi tiền cho cái tiệm bánh là gì?  Làm vậy giống như cố tình để lộ chân tướng.  Không có tay gián điệp chuyên nghiệp nào đi làm một chuyện như vậy.  Sao ông có thể liều được như thế?”

“Dì không biết ông có yêu Nellie hay không, nhưng ông muốn đối xử tử tế với bà.  Sau hai mươi lăm năm chung sống thì cũng phải có thương chứ.  Ông muốn chuẩn bị để bà có thể sống độc lập sau khi ông rời nước Mỹ luôn.  Cái đó muốn gọi là tình yêu hay danh dự hay tinh thần trách nhiệm, hay gì gì đi nữa thì cũng không thành vấn đề.  Cái quan trọng là ông làm điều ông cho là phải, và sẵn sàng phải trả giá cho hành động của mình.”

Ben nhìn tôi sững sờ.  Tôi nói thêm,  “Bộ con không nghĩ mẹ bà cũng là một nạn nhân sao?”

“Đồng ý.  Nhưng đời ông ngoại bị tàn chỉ vì muốn làm chuyện tử tế.”

“Và cũng vì ông không hiểu cái bản chất nham hiểm của cái quyền lực đã lợi dụng và điều khiển ông.

“Dì muốn nói là Trung Quốc?”

“Đúng thế.  Lối họ đối xử với ông ngoại con quả là ác độc.  Nhưng cũng tại ông ngoại con đã để họ ra điều đạo đức giả bắt phải thế này thế kia.  Đó cũng chính là thảm kịch đời ông.”

“Không giản dị vậy đâu.  Làm sao ông có thể tách mình ra khỏi quê hương trong khi gia đình còn bên đó?”

“Đó là thảm kịch thứ hai.  Ông không thể sống một mình.”

Tôi tiếp tục lái xe trong yên lặng.  Ben trông như đang ngủ gà ngủ gật trên chiếc ghế xe kéo ngửa ra, nhưng tôi nghi nó chỉ đang suy nghĩ tìm cách thoát thân, bởi thế cho nên tôi giữ im lặng, không nói gì.

Trời bắt đầu mưa, những giọt nước mưa rơi lộ̣p độp trên mặt kính, tôi bật cần gạt nước cho nó quạt đi quạt lại một cách đơn điệu.  Tôi đang lái sáu chục dặm một giờ, chạy theo chiếc cam nhông chở xăng chạy trước độ năm trăm feet.  

Khi đến gần Magog, Ben ngồi bật dậy, rút cuốn sổ tay trong túi quần, và hí hoáy viết cái gì trên đó.  Nó xé một trang rồi đưa cho tôi.  “Dì Lilian, giữ lấy cái này.”  Nó nói.

“Cái gì vậy?”

“Đây là địa chỉ email và mật khẩu.  Kể từ nay mình chỉ liên lạc qua địa chỉ này.  Con đã thành lập rồi.  Dì chỉ việc để lời nhắn lại trong thư mục nháp khi nào cần liên lạc.  Đọc xong, con sẽ xóa hết.  Dì cũng phải làm vậy.  Đọc xong là phải xóa ngay.”

“Tại sao?”

“Đây là một cách liên lạc mà không để lại dấu vết.  Email thường không an toàn.  Mình có cùng trương mục, chỉ có dì cháu mình biết thôi.”

“Có phải đây là cách con gửi tin tức về Trung Quốc không?”

Nó cười khúc khích.  “Chỉ là một cách.  Còn nhiều cách khác phức tạp hơn nhiều.  Với dì cháu mình thì thế này đủ rồi.”

Thì ra nó đã dự bị sẵn cả rồi.  Làm gì thì cũng hơn ngồi không, nên tôi không bắt nó giải thích thêm.



Khi về đến College Park, tôi soát trương mục email mỗi ngày dăm lần nhưng chẳng thấy gì.  Tôi viết cho nó nói hy vọng mọi sự êm thắm cả.  Sáng hôm sau lời nhắn đã bị xóa, có nghĩa nó đã đọc.  Tôi cũng thở phào nhẹ nhõm.

Henry và tôi ra ngoài ăn tối thứ Tư, ngày 21 tháng Chín, để ăn mừng sinh nhật thứ sáu mươi hai của chàng.  Anh lại nhắc đến Ben, hy vọng nó tai qua nạn khỏi với FBI và từ bỏ công việc làm ăn bất chánh để về làm cho chúng tôi, và rồi tất cả sống chung như một gia đình.  Henry biết tôi muốn vậy.  Thật vậy, nếu vậy thì còn gì bằng nữa.  Tôi vẫn phục những gia đình tị nạn mà cha mẹ cháu chắt sống chung một nhà, tuy có thể thế hệ trẻ sẽ không chịu, cần có khoảng cách cho mình.  Nhưng tôi không nói cho Henry nghe tình trạng bấp bênh của Ben.  Chồng tôi muốn về hưu sớm, lãnh tiền an ninh xã hội ngay lập tức.  Anh ấy không sợ mất quyền lợi vì công việc làm trong trường đại học của tôi có thể che chở cho anh.  Tôi không nói gì nhưng thắc mắc không biết anh ấy có thể chịu nổi cảnh ăn không ngồi rồi hay không.  Công việc hiện nay của anh không đòi hỏi mấy và anh có nhiều thời gian nhàn rỗi.  Vậy mà anh vẫn nhất định mướn thợ sửa để anh rảnh chân rảnh tay.  Tôi cũng không sao nhưng nói anh nên làm việc bận bịu để sống lâu hơn.  Anh cười và nói, “Anh chẳng thà thoải mái hơn sống dai.  Đối với cuộc đời, chất lượng hơn số lượng.”

Khi trở về nhà tối hôm ấy, tôi bật computer lên và mở email thì thấy có điện thư:

Dì Lilian mến

Khi dì tọc tới hàng chữ này thì con và Sonya không còn ở Boston nữa.  Chúng con rất thích vùng Massachusetts nhưng không thể ở đó được nữa.  Con vừa bán đổ bán tháo tiệm computer để có một số tiền mặt trong tay.  Không biết tụi con sẽ lưu lạc đến đâu nhưng đi đâu thì cũng có nhau, khi buồn cũng như khi vui.  Miễn sao có nàng ở bên cạnh thì con ở đâu cũng được, chẳng sợ cô đơn.  Con sẽ trân quý nàng như người bạn đồng hành duy nhất và sẽ yêu nàng như người vợ của con và người mẹ của con của con.

Gia đình con bên Tàu thế nào cũng bị liên lụy, và con sẽ không giúp gì được cho gia đình trong một thời gian lâu, nhưng con tin với sự giúp đỡ của dì, họ có thể sống tạm.  Trong gia đình con lo nhất cho con Cự Ly, vì nó, như con, thuộc loại nổi loạn.  Con chỉ sợ nó lại bỏ nhà ra đi vì đời sống tỉnh lẻ có thể buốn tẻ, ngột ngạt.  Ngày nào nó còn ở với bố mẹ con thì còn không sao.  Dì làm ơn khuyên nhủ nó hộ con.  Dì đừng nói gì cho nhà biết vội.  

Con cảm thấy như người vừa vượt khỏi chốn giam cầm.  Lần đầu tiên trong đời con cảm thấy độc lập, và không có quê hương.  Con quyết định sẽ để râu rậm rạp để trông già và ngầu hơn.  Đời sống có thoải mái hay không con không chắc, nhưng chúng con sẵn sàng chấp nhận những vui buồn của cuộc sống.  Đó mới chính là tự do phải không dì?

Hai cháu của Dì

Ben


Tái Bút:  Lúc đầu con đinh mùa xuân sẽ ghé DC để thăm mộ bố mẹ dì, giờ thì không làm được rồi.  Nếu dì có đi thăm mộ, xin mang theo hai bó hoa, cúc trắng hay hoa hồng, thay cho con và Sonya.


Tôi nghĩ chuyện Ben đào tẩu là lẽ tự nhiên, nhưng bán tiệm vội vã như vậy quả có hơi hấp tấp.  Nhưng mặt khác, có thể đó là cách duy nhất để nó có tiền đi trốn.

Tôi thắc mắc về Ben và Sonya.  Liệu chúng nó có vượt biên giới trốn sang Canada hay không?  Chắc là không.  Có lần tôi nửa đùa nửa thật bảo nó di dân sang Quebec giống như mấy tay trốn quân dịch, nhưng Ben nói Tàu có quá nhiều ảnh hưởng ở Canada.  Nó và Sonya có thể vẫn còn bên Mỹ.  Chúng phải trốn cả FBI lẫn gián điệp Tàu.  Chắc phải trên đường đào tẩu còn lâu.  Nhưng tôi tin chắc đi đâu chúng cũng sống được.

Tôi đọc bức thư của Ben một lần nữa rồi xóa đi.  Tôi mỉm cười khi nghĩ tới quyết định để râu của nó, nghe có vẻ hơi lạ đời.  Cũng có thể đây là lối nó biểu lộ nam tính, tối thiểu là bên ngoài.  Ben không biết bố mẹ tôi chôn hai nghĩa trang khác nhau, nhưng tôi sẽ mang hoa theo lời nó yêu cầu.  Tôi để lại lời nhắn bảo hai đứa nó phải lo cho nhau và đừng có làm bạn mới trong lúc này.

Lời nhắn của tôi được xóa mất ngày hôm sau.  Tôi cũng mừng.

Tôi nhắn qua Cự Ly cho chị tôi và anh rể tôi biết Ben đang làm công tác đặc biệt không thể liên lạc bên ngoài được, nhưng nó khoẻ mạnh, không có gì phải lo cả.  Cự Ly hồi âm và thay mặt cha mẹ cám ơn tôi.  Nó nhắc kỳ hội ngộ gia đình mùa hè  năm tới, mà tôi lại hứa là thể nào cũng qua.

Nhiều tuần sau mà tôi không nghe thấy gì về Ben.  Tôi cố giữ bình tĩnh.  Yên lặng có thể nghĩa là tất cả đều okay.



HẾT