Tuesday, December 1, 2015

MỘT CÁI CHẾT

MỘT CÁI CHẾT

STEPHEN KING



Jim Trusdale sống trong một túp lều tranh bên hông cái nông trại điêu tàn của cha hắn.  Khi Cảnh Sát Trưởng Barclay cùng dăm người dân quân đến nơi thì hắn đang ngồi trên cái ghế đẩu cạnh bên bếp lò nguội lạnh.  Hắn mặc áo ka-ki và đang đọc tờ báo cũ dưới ánh đèn dầu.
Cảnh Sát Trưởng Barclay tay cầm đèn măng xông, đứng che kín cánh cửa ra vào.
“ Jim, bước ra ngoài, đưa hai tay lên trời.  Đừng bắt tao phải rút súng.”
Trusdale bước ra, hai tay giơ lên trời, một tay vẫn còn cầm tờ báo.  Hắn nhìn ông Cảnh Sát Trưởng và toán người tùy tùng, bốn người cưỡi ngựa và hai người ngồi trên chiếc xe ngựa in hàng chữ màu vàng phai mờ “ Nhà Hòm Hines.”   Đôi mắt xám vô cảm.  
“ Mày không thắc mắc tại sao chúng tao đến đây sao?” Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.
“ Mấy ông đến đây làm gì?”
“ Mũ mày đâu?”
Trusdale dùng tay không cầm báo, rờ đầu như kiếm cái mũ nâu không có đó.
“ Trong nhà phải không?” ông Cảnh Sát Trưởng hỏi.  Một cơn gió lạnh thổi ngang làm tốc bờm ngựa và làm cánh đồng cỏ rạp xuống như một gợn sóng chẩy về hướng Nam.  
“ Không,” Trusdale nói.  “ Không có trong nhà.”
“ Vậy thì đâu?”
“ Chắc mất rồi.”
“ Leo lên xe ngựa,”  ông Cảnh Sát Trưởng nói.
“ Tôi không muốn ngồi xe thổ mộ,” Trusdale nói.  “ Xui xẻo lắm.”
“ Mày mà còn xui xẻo gì nữa,” một người đi theo nói.  “ Mày là ông nội xui xẻo rồi.  Lên lẹ đi.”
Trusdale trèo lên băng sau xe.  Gió lại nổi lên, hắn kéo chiếc áo khoác che kín cổ.
Hai người ngồi sau đi xuống và đứng hai bên.  Một thằng rút súng còn thằng kia thì không.  Trusdale biết mặt nhưng không biết tên mấy thằng dân làng.  Ông Cảnh Sát Trưởng cùng bốn thằng kia đi vào túp lều của hắn.  Một đứa là thằng Hines, chủ nhà đòn.  Chúng nó ở trong đó một hồi lâu.  Chúng mở cả bếp lò và khơi đám tro tàn và cuối cùng thì đi ra.
“ Không thấy gì hết,” ông Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.
“ Mất cái mũ tui tiếc quá.  Của ông già cho.  Ổng đương đội trên đầu thì lấy ra cho tui.”
“ Vậy thì đâu rồi?”
“ Thì nói rồi.  Chắc mất rồi.  Hay đứa nào chôm mất cũng không chừng.  Thôi tới giờ tui lên chuồng rồi.”
“ Không có lên chuồng lên chiếc gì hết.  Mày xuống phố hồi chiều phải không?”
“ Chắc chắn rồi,” một thằng nói trong khi leo lên ngựa. “ Tui thấy nó tận mắt.  Rõ ràng là có đội nón.”
“ Câm miệng lại, Dave,” Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.  “ Mày có ra phố không hả Jim?”
“ Dạ có.” Trusdale nói.
“ Vào quán Chuck-aLuck?”
“ Đúng.   Tui đi bộ ra quán, uống hai ly rồi đi bộ về.  Chắc làm mất cái nón trong Chuck-a-Luck.”
“ Đó là lời khai của mày phải không?”
Trusdale ngẩng đầu nhìn lên bầu trời ảm đạm của tháng mười một.
“ Nhìn mặt tao coi.”
Trusdale nhìn ông.
“ Đó là lời khai của mày phải không?”
“ Tôi nói rồi. Đó là sự thực.”  Trusdale nói, mắt nhìn thẳng.
Cảnh Sát Trưởng Barclay thở dài.  “ Được rồi, theo tao xuống phố.”
“ Làm gì?”
“ Mày bị bắt.”
“ Người đâu ra mà ngu tàn nhẫn luôn,”  một thằng đàn ông nói.  “ Ông già nó đâu đến nỗi vậy.”
Họ đi vào phố.  Đường dài độ sáu cây.  Trusdale ngồi sau xe ngựa run lập cập vì lạnh.  Người cầm dây cương ngựa nói mà không ngoảnh mặt lại, “ Mày cướp tiền rồi có hiếp nó luôn không, thằng khốn nạn?”
“ Mấy người nói gì tôi không hiểu,”  Trusdale nói.
Đoạn đường còn lại, họ đi trong yên lặng.  Trong phố, người ta đứng hai bên đường.  Lúc đầu họ không nói gì nhưng rồi một bà già quấn khăn choàng cổ màu nâu khập khễnh chạy theo chiếc xe thổ mộ  và nhổ nước bọt vào Trusdale.  Tuy không trúng nhưng người ta cũng vỗ tay ầm ĩ.
Khi đến nhà lao, Cảnh Sát Trưởng Barclay giúp Trusdale bước xuống xe.  Cơn gió lại nổi lên, mang theo mùi tuyết.  Những cuộn cỏ dại lăn xuống con đường chính về hướng hồ chứa nước, tụ lại một đống cạnh hàng rào gỗ.
“ Treo cổ quân giết trẻ con!” một người đàn ông thét to.  Một người ném cục đá bay ngang đầu Trusdale và lăn sổn sảng trên lối gỗ dành cho người bộ hành.
Cảnh Sát Trưởng Barclay quay lại, nâng cao chiếc đèn măng xông và đưa mắt nhìn đám đông tụ tập trước cửa tiệm chạp phô.
“ Đừng làm vậy,” ông nói.  “ Để nhà chức trách làm việc.”
Ông Cảnh Sát Trưởng nắm cánh tay Trusdale lôi đi qua văn phòng rồi dắt vào trong phòng giam bên trái.  Có một cái giường, một cái ghế đẩu, và một cái bô.  Trusdale định ngồi xuống ghế thì Barclay nói,
“ Không.  Đứng yên đó.”
Ông Cảnh Sát Trưởng nhìn đám dân quân tụ tập trước cửa ra vào.
“ Mấy cha đi ra ngoài hết,” ông nói.
“ Otis,” thằng tên Dave nói, “ Lỡ nó tấn công ông thì sao?”
“ Tôi đã có cách trị nó.  Cám ơn.  Nhưng giờ thì đi chỗ khác chơi đi.”
Khi họ đi rồi, Barclay nói, “ Cởi áo khoác ngoài ra đưa cho tao.”
Trusdale cởi chiếc áo ka-ki.  Bên trong hắn không mặc gì ngoài một cái áo thun và cái quần corduroy rách tả tơi.  Cảnh Sát Trưởng Barclay lục túi áo khoác và tìm thấy một nhúm thuốc lá gói trong trang giấy báo, một vé số cũ, và một hòn bi màu đen.
“ Cái đó là hòn bi hên của tôi,” Trusdale nói.  “ Có cái đó từ hồi bé.”
“ Móc túi quần ra.”
Trusdale móc túi quần.  Hắn có một đồng một xu, ba đồng năm xu và một trang quảng cáo tìm vàng ở Nevada trông cũ không kém tờ vé số.
“ Cởi giầy ra.”
Trusdale cởi giày.  Barclay rờ tay bên trong.  Đế giày có một cái lỗ to bằng đồng mười xu.
“ Cởi vớ ra.”
Barclay lộn vớ ra ngoài rồi đáp qua một bên.
“ Cởi quần ra.”
“ Tôi không muốn cởi quần.”
“ Bộ mày tưởng tao muốn nhìn hả.  Cởi ra đi cha nội.”
Trusdale cởi quần dài ra.  Hắn không mặc quần lót.
“ Cúi xuống, vạch mông ra.”
Trusdale quay lại, vạch mông ra.  Cảnh Sát Trưởng Barclay nhăn mũi, thở dài, rồi thọc một ngón tay vào hậu môn hắn.  Trusdale rên rỉ.  Barclay lấy ngón tay ra và quệt ngón tay vào áo thun của Trusdale.
“ Cái đó đâu rồi Jim?”
“ Cái mũ hả?”
“ Bộ mày tưởng tao thọc tay lỗ đít mày để kiếm cái mũ ấy à? Bộ mày tính giỡn mặt với tao chắc?”
Trusdale kéo quần lên và cài nút lại.  Rồi hắn đứng run lập cập.  Một tiếng trước đây hắn đang ở nhà đọc báo và nghĩ đến chuyện nhóm lửa bếp, và cái đó tưởng như đã xa xôi lắm rồi.
“ Mũ mày tao để trong văn phòng,”
“ Thế thì tại sao ông hỏi tôi?”
“ Hỏi để coi mày nói cái gì.  Cái tao muốn biết là mày dấu đồng bạc đô la của con bé ở đâu.  Không có trong nhà mày, trong túi mày, hay trong lỗ đít mày.  Có phải mày sợ nên vất đi không?”
“ Tôi chẳng biết gì về đồng đô la nào cả.  Cho tôi xin cái mũ lại được không?”
“ Không.  Đó là tang chứng.  Jim Trusdale, tao bắt mày vì tội giết Rebecca Cline.  Mày có gì để nói không?”
“ Tôi chẳng biết Rebecca Cline nào cả.”
Ông Cảnh Sát Trưởng ra khỏi phòng giam, đóng cửa, lấy chìa khoá máng trên tường và khóa lại.  Ổ khóa kêu ken két.  Phòng giam thường dùng để giữ mất thằng say và ít khi nào khóa lại.  Ông nhìn vào Trusdale và nói, “ Tao tội nghiệp cho mày.  Lửa hỏa ngục không đủ nóng cho mấy thằng phạm tội ấy.”
“ Tội gì?”
Ông Cảnh Sát Trưởng quay mặt bỏ đi mà không trả lời.
Trusdale ở trong nhà lao, ăn thức ăn của quán Mother’s Best gửi qua, ngủ trên giường, ỉa đái vào bô.  Cha hắn không đến thăm vì đã bị lẫn trí và đang ở với hai bà mọi da đỏ, một người thuộc bộ lạc Sioux và người kia, Cheyenne.  Còn anh nó thì đang ở bên Nevada đi tìm vàng.


Thỉnh thoảng lũ con nít đứng ngoài chấn song hát, “ Ông thắt cổ, ông thắt cổ, xuống đây đi.”   Có người đe dọa cắt cu nó.  Có lần bà mẹ của Reebecca Cline đến nói sẽ tự tay treo cổ hắn.  
“ Sao mày nỡ giết con tao?”  Bà hỏi qua khung cửa sắt.  “ Nó mới có mười tuổi đầu.”
“ Thưa bà,” Trusdale đứng trên giường nhìn xuống qua chấn song, nói. “ Tôi không giết con bà hay bất kỳ một ai.”
“ Thằng mọi đen nói láo,” Nói xong bà bỏ đi.
Cả phố ùa đi đám ma con bé.  Mấy bà mọi da đỏ cũng đi.  Cả hai ả gái giang hồ làm cho quán Chuck-a-Luck cũng đi.  Trusdale nghe tiếng hát đám ma vang vọng vào trong khi đang ngồi bô trong góc.


Cảnh Sát Trưởng Barclay đánh điện cho Đồn Fort Pierre.  Một tuần sau thì ông chánh án lưu động đến.  Ông ta mới nhậm chức nên còn khá trẻ.  Trông ông hơi có vẻ công tử, tóc vàng dài tới lưng theo kiểu Wild Bill Hickok.  Tên ông là Roger Mizell.  Ông đeo kính gọng tròn và có vẻ mê gái khi vào Chuck-a-Luck và Mother’s Best mặc dù trên ngón tay có đeo nhẫn cưới.  Trong phố không có luật sư để biện hộ cho Trusdale nên Mizell cho vời George Andrews, chủ tiệm chạp phô và khách sạn Good Rest.  Andrews từng theo học hai năm đại học tại một trường thương mại miền Đông.  Anh nói sẽ biện hộ cho Trusdale nếu ông bà Cline đồng ý.  
“ Thì đi gặp họ,” Mizell nói.  Ông đang ngồi ngửa cho cạo râu ở tiệm hớt tóc.  “ Còn chờ cái gì nữa.”
Sau khi Andrews nói lý do đến gặp thì ông Cline nói.  “ Tôi có thắc mắc này muốn hỏi.  Nếu không có người biện hộ thì liệu họ có treo cổ nó được không?”
“ Làm như vậy không phù hợp với tinh thần công lý của Hợp Chủng Quốc,” Andrews nói.  “ Tuy mình chưa trực thuộc Hoa Kỳ nhưng cũng sắp rồi.”
“ Nó có cách nào gỡ tội được không?” Bà Cline hỏi.
“ Dạ thưa không,” Andrews nói.  “ Không đời nào.”
“ Thế thì đi làm nhiệm vụ của mình đi và chớ gì Thiên Chúa chúc lành cho anh.”


Phiên xử bắt đầu một buổi sáng tháng mười một và kéo dài tới giữa chiều tại hội trường thành phố.  Ngày hôm đó tuyết rắc xuống như đăng ten đám cưới.  Mây xám ùn ùn kéo về, đe dọa sắp có một cơn bão lớn.  Roger Mizell, sau khi nghiên cứu ca xử, sẽ vừa làm luật sư công tố, vừa làm chánh án.  
“ Giống như một anh giám đốc ngân hàng vay tiền nhà băng rồi trả tiền lời cho chính mình,”  một người trong bồi thẩm đoàn nói trong bữa ăn trưa tại Mother’s Best.
Cống tố viên Mizell cho gọi sáu nhân chứng, và chánh án Mizell không hề phản đối.  Ông Cline lên trước tiên, Cảnh Sát Trưởng Barclay cuối cùng.  Kết luận thật giản dị.  Buổi trưa hôm xảy ra án mạng, có một bữa tiệc sinh nhật với bánh và kem.  Nhiều đứa bạn của Rebecca được mời.  Khoảng hai giờ chiều, khi mấy đứa con gái đang chơi trò Gắn Đuôi Lừa và Ghế Nhạc thì Jim Trusdale đi vào Chuck-a-Luck, gọi một cốc whisky.  Hắn đội cái mũ rộng vành.  Hắn nhâm nhi ly rượu và khi hết, gọi một ly khác.
Có lúc nào thấy hắn giở nón ra không?  Có thể treo trên móc cạnh cánh cửa chăng?  Chẳng ai nhớ.
“ Tôi chưa bao giờ thấy hắn không đội mũ,” Dale Gerard, anh phục vụ rượu nói.  “ Hắn thích cái mũ đó lắm.  Nếu có lấy ra thì cũng chỉ để bên cạnh trên quầy rượu.  Hắn uống ly thứ hai rồi đi.”
“ Thế hắn có để lại cái mũ trên mặt bàn khi bỏ đi không?” Mizell hỏi.
“ Thưa không.”
“ Có thấy trên cái móc khi đóng cửa tiệm không?”
“ Thưa không.”
Khoảng 3 giờ chiều ngày hôm đó, Rebecca Cline rời căn nhà mình ở phía nam thành phố để đến tiệm thuốc trên đường Main.  Mẹ nó đã dặn đi dặn lại là chỉ được dùng đồng đô la sinh nhật để mua kẹo mà không được ăn vì cả ngày ăn bánh trái thế là quá đủ rồi.   Khi 5 giờ chiều mà nó chưa về nhà thì ông Cline và vài người đàn ông khác bắt đầu đổ xô đi tìm.  Họ tìm thấy xác nó ở hẻm Barker, giữa trạm xe ngựa và khách sạn Good Rest.  Nó chết vì bị bóp cổ.  Đồng đô la bằng bạc đã không cánh mà bay.  Mãi đến khi ông bố ôm nó vào lòng thì mới phát hiện ra cái mũ da rộng vành của thằng Trusdale nằm dưới cái váy của con bé.  


Trong khi bồi thẩm đoàn nghỉ để ăn trưa thì người ta có thể nghe được tiếng búa gõ chan chát đàng sau trạm xe ngựa cách phạm trường chỉ vài bước.  Người ta đang đóng cái giá để treo cổ.  Công việc được trông nom bởi John House, ông thợ mộc của thành phố.  Sắp tới mùa tuyết và con đường dẫn tới Trại Pierre sẽ không đi được.  Và chẳng có lý do gì để nuôi Trusdale trong tù cho đến mùa xuân.
“ Đóng giàn treo cổ dễ òm à,” House nói với đám người bu lại coi.  “ Một đứa con nít cũng làm được.”
Hắn nói dưới cái cửa sập là một cây đà gắn đòn bẫy đã được thoa mỡ bò cẩn thận.  “ Làm sao để một lần là xong, chứ không phải làm lại mất công lắm.”  Hắn nói.
Buổi chiều hôm đó, George Andrews cho gọi Trusdale lên ghế nhân chứng.  Nhiều người dưới hàng ghế dự khán bắt đầu la ó.  Chánh Án Mizell nện búa, dọa sẽ đuổi sạch ra ngoài nếu còn ồn ào.
“ Ông có vào quán Chuck-a-Luck trong ngày hôm đó không?”  Andrews hỏi sau khi trật tự đã được tái vãn.
“ Dĩ nhiên rồi,”  Trusdale nói.  “ Nếu không sao tôi lại có ở đây.”
Người ta ồ lên cười, và Chánh Án Mizell lại nện búa, nhưng chính ông cũng mỉm cười.
“ Ông có gọi hai ly rượu không?”
“ Dạ phải.  Tôi chỉ đủ tiền cho hai ly thôi.”
“ Nhưng mày đã kiếm ra một đô la khác ngay phải không, thằng khốn?”  Abel Hines thét lên.
Mizell cầm cái búa chỉ vào mặt Hines trước, rồi vào Cảnh Sát Trưởng Barclay sau, đang ngồi trên hàng đầu.
“ Ông cảnh Sát Trưởng, giải người đó ra và bắt giam tội gây mất trật tự tòa án.”
Barclay dắt Hines ra ngoài nhưng không còng tay, chỉ hỏi tại sao làm vậy.
“  Otis, thứ lỗi cho tôi,” Hines nói.  “ Nhìn cái bản mặt nó tôi dằn lòng không nổi.”
“ Thôi đi ra xem thằng John House có cần phụ một tay không,” Barclay nói.  “ Đừng có trở lại cho đến khi mọi sự đã xong xuôi hết.”
Trong khi đó, Trusdale tiếp tục lời khai.  Khi rời Chuck-a-Luck thì hắn không đội mũ nhưng về tới nhà thì mới biết.  Khi đó thì hắn đã hết xíu quách để trở lại phố kiếm.  Vả lại trời lúc đó đã tối.  
Mizell ngắt lời.  “ Bộ anh bắt tòa phải tin là anh đi bộ 6 cây số mà không biết mình không đội nón à?”
“ Dạ tại tôi lúc nào cũng đội mũ nên không để ý.”  Trusdale nó và một tràng cười rộ lại nổi lên trong đám cử tọa.
Barclay đi trở vào và ngồi xuống cạnh Dave Fisher.  “ Họ cười cái gì vậy?”
“ Cái thằng ngu này khỏi cần luật sư công tố.  Nó tự buộc tội nó cũng đủ rồi.”  Fisher nói.
“ Đáng lý không nên cười nhưng khôi hài quá chịu không nổi.”


“ Anh có gặp Rebecca Cline trong cái hẻm đó không?”  George Andrews hỏi bằng một giọng oang oang.  Khi mọi con mắt đều đổ dồn vào mình thì George mới phát giác là mình có tài hùng biện mà trước giờ nào có hay.  “ Có phải anh đã ăn cướp đồng đô la của cô bé không?”
“ Dạ không,” Trusdale nói.
“ Có phải anh đã giết nó không?”
“ Dạ không.  Tôi chẳng biết nó là ai.”
Ông Cline đứng bật dậy và la lên,
“ Chính mày đã giết nó, quân chó đẻ.”
“ Tôi không nói láo.” Trusdale nói, và đó là lúc mà Cảnh Sát Trưởng Barclay tin hắn.
“ Tôi không còn gì để hỏi nữa,”  Andrews nói, rồi đi về chỗ ngồi.
Trusdale nhổm người đứng dậy, nhưng Mizell bảo hắn ngồi xuống trả lời vài câu hỏi nữa.
“  Anh Trusdale.  Thế anh vẫn một mực khẳng định là có người ăn cắp mũ của anh trong khi anh đang uống rượu ở Chuck-a-Luck,  đội cái mũ đó lên đầu, vào con hẻm, giết Rebecca Cline, rồi để lại mũ lại đó để anh bị liên lụy?”
Trusdale yên lặng không nói.
“  Hãy trả lời câu hỏi.”
“ Dạ tôi không hiểu nghĩa chữ liên lụy là gì.”
“ Anh đòi tòa phải tin là có người sắp đặt để anh mang cái tội sát nhân tàn nhẫn này?”
Trusdale suy nghĩ, hai tay vầy vò vào nhau.  Cuối cùng hắn nói,  “ Có thể có ai lấy nhầm mũ của tôi rồi vất đi cũng không chừng.”
Mizell nhìn xuống hàng ghế người dự khán.  “ Trong đây có ai lấy nhầm mũ của ông Trusdale không?”
Không có một tiếng động nào ngoại trừ tiếng tuyết rơi bắn vào cửa sổ.  Cơn bão lớn đầu tiên của mùa đông đã tới.
“ Tôi không còn câu hỏi nào khác,” Mizell nói.  “ Và vì tình trạng thời tiết xấu nên sẽ bỏ lời phát biểu bế mạc.  Bồi thẩm đoàn sẽ trở lại phòng để luận án.  Quí vị có 3 lựa chọn- vô tội, ngộ sát, hay sát nhân gia trọng.”


Cảnh Sát Trưởng Barclay và Dave Fisher lui về Chuck-a-Luck.  Abel Hines cũng nhập bọn.  Dale Gerard rót cho họ một vại nửa lít bia không tính tiền.
“ Có thể Mizell không còn câu hỏi,” Barclay nói, “ Nhưng tôi có một câu.  Dẹp vụ cái mũ qua một bên.  Nếu Trusdale giết con bé thì tại sao không tìm ra đồng đô la bạc?”
“ Bởi sợ nên nó vất đi.”  Hines nói.
“ Tôi không nghĩ vậy.  Thằng đó không đủ trí thông minh làm chuyện đó.  Nếu nó có tiền thì đã ra quán Chuck-a-Luck để uống tiếp.”
“ Nói cái gì vậy?” Dave hỏi.  “ Bộ anh nghĩ nó vô tội hả?”
“ Tao chỉ nói là phải chi kiếm được đồng bạc.”
“ Biết đâu đồng tiền lọt qua cái lỗ trong túi.”
“ Túi nó không có lỗ.  Tao kiểm soát rồi,” Barclay nói.  “ Giầy nó có lỗ nhưng không đủ lớn để  lọt đồng bạc.” Ông uống thêm một ngụm bia.  Những cụm dã thảo bay trên con đường chính trông giống những bộ não ma quái trên tuyết.


Một tiếng rưỡi sau thì bồi thẩm đoàn đã luận tội xong.  “ Bỏ thăm lần đầu là đã đủ treo cổ nó rồi,” Kelton Fisher sau này kể lại,  “ Nhưng chúng tôi muốn cho nó có vẻ đàng hoàng.”
Mizell hỏi Trusdale có điều gì muốn nói trước khi đọc bản án.
“ Chẳng biết nói gì khác,” Trusdale nói.  “ Chỉ có điều là tôi không có giết con bé đó.”
Ba ngày sau thì cơn bão thổi qua.  John House hỏi Barclay Trusdale nặng độ bao nhiêu, và Barclay phỏng đoán độ 140 pounds. House bỏ gạch đá vào một cái bao bố cho đến khi cân nặng đủ 140 pounds rồi treo cổ cái bao bố trong khi một nửa cư dân thành phố đứng nhìn dưới trời tuyết bay lất phất.  
Đêm trước ngày hành hình thì thời tiết bắt đầu trở nên quang đãng.  Cảnh Sát Trưởng Barclay nói Trusdale muốn ăn cái gì cũng được.  Trusdale gọi món bíp tết và trứng với khoai tây chiên thẫm nước sốt.  Barclay bỏ tiền túi ra trả, rồi ngồi bàn giấy cắt móng tay và nghe tiếng dao nĩa lẻng kẻng.  Khi xong thì ông đi vào phòng giam.  Trusdale đang ngồi trên giường.  Cái đĩa sạch đến độ Barclay nghĩ hắn đã phải liếm hết nước sốt như một con chó.  Hắn đang khóc thút thít.
“ Tôi vừa nghĩ ra một chuyện,” Trusdale nói.
“ Chuyện gì vậy Jim?”
“ Nếu họ treo cổ tôi sáng mai thì bíp tết và trứng vẫn còn nằm nguyên trong bao tử, chưa có cơ hội tiêu hóa.
Barclay ngồi nín thinh một hồi lâu.  Ông rùng mình khủng khiếp không phải vì cái hình ảnh mà vì Trusdale đã nghĩ đến nó.  Rồi ông nói.
“ Chùi sạch mũi.”
Trusdale quẹt ngang mũi.
“ Jim, nghe kỹ đây, bởi vì đây là cơ hội cuối cùng.  Mày ngồi trong quán rượu lúc xế chiều thì đâu có mấy người trong đó phải không?”
“ Chắc vậy.”
“ Vậy thì ai lấy mũ mày?  Nhắm mắt lại.  Ráng nhớ lại coi.”
Trusdale nhắm tít mắt lại.  Barclay đợi một cách kiên nhẫn.  Cuối cùng Trusdale mở cặp mắt đỏ ngầu vì khóc.  “ Chịu.  Không nhớ có đội mũ hay không.”
Barclay thở dài.  “ Đưa tao cái đĩa.  Cẩn thận con dao.”
Trusdale đưa cái đĩa với dao nĩa nằm trên qua thanh cửa.  Nói thèm một ly bia.  Barclay suy nghĩ xong khoác áo, đội mũ Stetson và đi bộ sang Chuck-a-Luck để lấy một thùng bia.  Thằng Hines nhà đòn vừa uống xong ly vang, đứng dậy đi theo.
“ Ngày mai sẽ um xùm lắm đây,” Barclay nói.  “ Mười năm rồi chưa có ai bị xử treo và mười năm nữa mới có treo cổ trở lại.  Tới lúc đó thì tao không còn làm nữa.  Phải chi về hưu cho rồi.”
Hines nhìn ông.  “ Anh không nghĩ nó giết con bé?”
“ Nếu nó không phải là người giết,” Barclay nói.  “ Thì thủ phạm vẫn còn nhơn nhởn đâu đây.”


Cuộc hành hình vào lúc 9 giờ sáng ngày hôm sau.  Trời gió lạnh nhưng mọi người đã có mặt để xem.  Mục Sư Ray Rowles đứng cạnh John House trên khán đài.  Dù có mặc áo choàng, quấn khăn, nhưng cả hai vẫn run lập cập vì lạnh.  Barclay dắt Trusdale, tay cùm lại sau lưng, lên khán đài.  Khi bước lên tới bậc thang thì Trusdale bắt đầu khuỵu xuống và òa lên khóc.
“ Tôi van các ngài,” Hắn nói.  “ Tôi xin các ngài.  Đừng giết tôi.”
Tuy hắn nhỏ người nhưng khá khoẻ, và Barclay phải ra hiệu cho Dave Fisher ra phụ.  Cả hai vừa ôm vừa kéo xềnh xệch nó lên 12 bậc thang gỗ.  Khi lên tới giảo hình đài thì Trusdale bắt đầu nín, nhưng khi Mục Sư Rowles bắt đầu đọc Thánh Vịnh 51 thì hắn lại rú lên.  “ Như vú nàng bị kẹp trong máy xay,” có người nói sau ở quán Chuck-a-Luck.
“ Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà thương xót con, “ Rowles bắt đầu đọc to lên để át tiếng tru, tiếng rú của phạm nhân.  “ Xin ngài mở lượng hải hà mà rửa con sạch hết mọi lỗi lầm.”
Khi Trusdale thấy House lấy miếng vải đen trùm đầu từ trong thắt lưng ra thì bắt đầu thở hổn hển như một con chó.  Hắn lắc đầu qua lại để tránh cái mũ.  Tóc hắn bay phất phới trong gió.  
“ Cho tôi nhìn ngọn núi một lần cuối,” Trusdale rống lên.  Hai hàng nước nhớt chảy tòng teng dưới lỗ mũi.  “ Cho tôi nhìn ngọn núi một lần cuối.”
Nhưng House vẫn trùm cái mũ lên đầu Trusdale và kéo xuống tới vai.  Mục Sư Rowles vẫn rề rà đọc tiếp, và Trusdale cố chạy tránh cái cửa sập nhưng Barclay và Fisher đẩy hắn xuống lại.  
“ Nói amen,” Barclay bảo Mục Sư Rowles, “ Làm ơn nói amen nhanh lên.”
“ Amen,” Mục Sư Rowles nói, bước ra sau và đóng cuốn Thánh Kinh kêu cái độp.
Barclay ra hiệu cho House kéo cái đòn cân.  Miếng đà đã thoa mỡ bò rút lại và cánh cửa sập xuống.  Tiếng cổ gẫy nghe rắc rắc.  Hai chân hắn rút lên tới cổ, rồi thả thõng xuống.  Những giọt nước vàng chảy xuống làm ố bẩn một vùng tuyết dưới chân.  
“ Rồi đời mày, thằng khốn nạn.” bố của Rebecca Cline la lớn lên.  “ Chết như một con chó.  Cầu cho mày xuống địa ngục.”  Có tiếng vỗ tay rời rạc.
Đám người dự khán ở lại cho tới khi xác Trusdale, vẫn còn trùm vải đen, được đặt trên cùng một chiếc xe ngựa đã mang hắn vào phố.  Rồi họ giải tán.
Barclay trở về nhà lao và ngồi trong phòng giam Trusdale.  Ông ngồi khoảng 10 phút, hơi thở ra khói. Cuối cùng thì cái ông đợi đã đến.  Ông xách cái xô đựng bia và mửa vào đó.  Rồi ông vào văn phòng chụm lò sưởi.  
8 tiếng sau khi Abel Hines đi vào, ông vẫn còn đó, ngồi đọc sách.  Hines nói, “ Anh phải xuống nhà quàn.  Có cái này tôi muốn anh xem.”
“ Cái gì?”
“ Không nói được.  Phải xem mới được.”
Họ đi bộ tới nhà quàn.  Xác Trusdale nằm trần truồng trên một miếng phản.  Mùi chất hóa học và cứt đái nồng nặc xông lên mũi.  
“ Khi chết như vậy thì người ta ỉa ra quần,” Hines nói.  “  Kể cả những người can đảm, không sợ chết.  Nó là phản ứng tự nhiên.  Cơ vòng mở toang vì phản xạ.”
“ Rồi sao?”
“ Ra đây.  Làm nghề như anh thì xem cứt đái trong quần cũng là bình thường.”
Cái quần lộn ngược ra, để nằm dưới sàn nhà.  Trong đống phân nhớp nhúa có một cái gì óng ánh.  Barclay nhìn gần hơn và thấy đó là một đồng đô la bạc.  Ông thò tay nhặt nó ra.
“ Tôi không tài nào hiểu được,” Hines nói.  “ Thằng chó đẻ đó bị nhốt khá lâu mà.”
Barclay ngồi phệt xuống cái ghế trong góc nhà.  “ Chắc nó nuốt ngay sau khi mình đến bắt nó.  Và mỗi lần ỉa ra thì nó lại lau chùi rồi nuốt lại.”
Hai người ngồi nhìn nhau.
“ Vậy mà anh tin lời nó,”  Hines nói.
“ Thật là dại dột.  Nó một mực đến chết vẫn kêu oan.  Chắc khi đứng trước tòa phán xét của Thiên Chúa vẫn nói vậy.”
“ Chắc vậy.”
“ Tôi vẫn không hiểu.  Trước sau gì thì nó cũng bị treo cổ.  Anh có hiểu không?”
“ Mặt trời mọc mỗi sáng mà tôi còn không hiểu nói chi là.  Thế rồi bây giờ làm gì với cái đồng bạc này? Trả lại cho bố mẹ con bé? Có lẽ không nên, bởi vì…”  Hines nhún vai.


Bởi vì vợ chồng Clines đã biết.  Mọi người trong thành phố đều đã biết.  Ông là người duy nhất không biết.  Thật là dại khờ.
“ Tôi không biết phải làm gì với đồng bạc đó.” ông nói.


Cơn gió mạnh thổi thình lình mang theo tiếng hát.  Tiếng hát từ nhà thờ.  Bài hát phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa.  






















Thursday, November 26, 2015

CÂM


CÂM

1
Ngôi nhà thờ trống trơn có ba phòng giải tội.  Đèn phòng giữa bật sáng mà không có người đợi.   Ánh sáng màu nhạt soi qua khe cửa  thành những ô vuông trên lối đi chính lên Cung Thánh.  Monette dợm bước đi nhưng nghĩ sao lại ngồi lại.  Ông bước vào căn phòng giải tội không người.  Khi ông đóng cửa ngồi xuống thì cánh cửa nhỏ bên phải mở ra.  Tường trước mặt ghim một mẩu giấy vuông với hàng chữ đánh máy:  VÌ MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐÃ PHẠM TỘI, THIẾU MẤT SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.  
Từ bên kia cánh cửa lưới, vị linh mục nói.  “ Sao? khoẻ không?”
Monette thấy câu hỏi hơi lạ, nhưng không thắc mắc.  Nhưng ấp úng mãi mà không trả lời được.  
“ Sao? không có gì để nói à?”
Ý nghĩ thì có nhưng không nói ra được.  Monette liên tưởng đến một cái cầu tiêu bị nghẹt.
Bóng mờ bên kia cửa lưới nhấp nhổm.  “ Lâu lắm rôi hả?”
“ Dạ,” Monette nói.  
“ Cần nhắc không?”
“ Không.  Con nhớ.  Thưa cha, xin cha làm phép giải tội cho con.”
“ Được rồi.  Con xưng tội lần trước cách đây bao lâu?”
“ Con không nhớ.  Lâu rồi.  Từ hồi còn bé.”
“ Được rồi.  Cứ từ từ.  Đã xưng một lần thì không bao giờ quên.”
Nhưng sao vẫn không nói nên lời.  Monette nhìn mẩu giấy mà cổ thấy nghèn nghẹn, hai bài tay đan chặt vào nhau thành nắm đấm đu đưa giữa đùi.
“ Sao con? Trưa tới nơi rồi mà cha lại có khách hẹn mang thức ăn trưa đến…”
“ Thưa cha, con đã phạm tội trọng.”
Giờ thì tới phiên ông cha im lặng.  Tắt tiếng.  Một hồi thì ông mới nói bằng một giọng tuy vẫn niềm nở nhưng có vẻ nghiêm trọng.  “ Con có tội gì vậy?”
“ Con không biết.  Cha nghe con xưng xong rồi hãy quyết định.”


2
Khi Monette lái xe tới lối vào xa lộ thì trời bắt đầu lấm tấm mưa.  Va-li để trong cốp xe và hai chiếc cặp đựng hàng mẫu--loại to cồng kềnh như của luật sư khiêng ra tòa--nằm trên băng ghế sau.  Một cái màu nâu, một cái đen.  Cả hai có in hình chạm nổi nhãn hiệu của Wolfe and Son: một con chó sói xám, miệng ngậm cuốn sách.  Monette là người đi chào hàng miền bắc New England.  Bây giờ là sáng ngày thứ Hai.  Chưa có một cuối tuần nào như cuối tuần vừa rồi.  Vợ ông đã dọn ra khách sạn ở với người khác.  Nàng sẽ đi tù.  Xì căng đan và ngoại tình còn là chuyện nhỏ.
Trên mép áo vest ông đeo một cái nút có hàng chữ,
THƯ MỤC MÙA THU.   
HAY CHƯA TỪNG THẤY.


Một người đàn ông quần áo cũ kỹ, tay cầm một tấm bảng đứng ở đầu lối vào xa lộ.  Một cái bọc nằm giữa đôi chân đi giày Ba-ta bẩn thỉu.  Mui velcro của một chiếc giày tuột ra làm lưỡi gà lòi lên.  Hắn không che dù, không đội mũ.  
Thoạt tiên Monette không đọc được tấm bảng vẽ hình cái miệng, gạch chéo bằng mực đen. Khi tới gần hơn thì ông thấy một hàng chữ phía trên TÔI BỊ CÂM ! phía dưới là LÀM ƠN CHO ĐI QUÁ GIANG???
Trong suốt hơn một chục năm làm nghề chào hàng cho Wolfe & Son ông đã lái biết bao dặm đường mà chưa hề cho ai đi quá giang.  Hôm này thì chẳng chút ngại ngùng,  ông rề xe tấp vào.  Sợi dây treo chiếc mề đay Thánh Christopher trên kính chiếu hậu còn đang đong đưa trong khi ông nhấn nút cho cửa mở.  
Bây giờ thì còn cái gì để mà sợ nữa.
Người xin quá giang chui vào xe và đặt cái bịch tàn tạ của mình giữa đôi giầy ẩm ướt bẩn thỉu.  Anh chàng nhìn đã biết là hôi.  Mà hôi thật.  
“ Anh muốn đi đến đâu?” Monette hỏi.
Anh chàng xin quá giang nhún vai và chỉ về hướng xa lộ rồi cẩn thận đặt tấm bảng  lên trên bọc của mình.  
“ Thì đã biết về hướng nào rồi, nhưng…” Monette nhớ ra là hắn điếc nên đợi hắn sắp xếp chỗ ngồi cho ngay ngắn. Một chiếc xe chạy vù qua và nhấn còi mặc dù Monette đã cẩn thận đậu sát lề.   
Người xin quá giang buộc dây an toàn và nhìn Monette, như nói còn đợi cái gì nữa.  Nhìn mặt không thể đoán tuổi được.
“ Đi đâu?” Monette hỏi, lần này phát âm từng chữ, và khi hắn vẫn nhìn thì ông nói, “ Anh có đọc môi được không?”  Ông chỉ tay vào môi mình.
Hắn lắc đầu và vẫy vẫy tay ra dấu.
Monette giữ một cuốn vở trong hộc xe.  Trong khi ông viết chữ ĐI ĐÂU? thì một chiếc xe khác chạy vụt qua làm bắn lên hai dòng nước uốn cong như đuôi con gà trống.  Monette dự tính sẽ lái xe đến Derry, cách đây khoảng một trăm-sáu-mươi dặm, bình thường sẽ là một chuyến đi không lấy làm thích thú lắm nhất là với thời tiết như bây giờ.  Nhưng hôm nay thì khác.  Ông đã có một người bạn đồng hành.  Hắn nhìn tờ giấy rồi lại nhìn Monette.  Thì ra anh chàng cũng không biết đọc nhưng dấu hỏi thì hiểu.  Hắn chỉ ngón tay qua cửa kính về hướng xa lộ và nắm mở bàn tay tám lần.  Tám chục dặm.
“ Waterville?” Monette đoán mò.
Anh chàng quá giang nhìn ông một cách ngây ngô.  
“ Okay,” Monette nói.  “ Không sao.  Khi tới chỉ việc vỗ vai là xong.”
Anh chàng quá giang vẫn nhìn.
“ Thôi được rồi, tới đó hãy hay.” Ông nhìn kính chiếu hậu và bắt đầu cho xe lăn bánh.  “ Ông bạn coi như mất hẳn liên lạc với thế giới bên ngoài nhỉ?”
Hắn nhún vai và lấy hai tay che tai.
“ Biết rồi,” Monette nói và cho xe nhập vào xa lộ.  “ Mất hết liên lạc.  Điện thoại bị cúp.  Nhưng hôm nay tôi muốn được như ông bạn.”  Ông im lặng một lúc.  “ Nghe nhạc nhé?”
Và khi anh chàng quá giang xoay người nhìn ra cửa bên thì Monette phải phì cười.  Nhạc hay không nhạc chẳng thành vấn đề với anh chàng này.  
Ông vừa mua một CD Josh Ritter cho con gái-- tuần sau sinh nhật nó--nhưng vẫn chưa gửi đi.  Hồi này nhiều chuyện quá.  Sau khi ra khỏi Portland thì ông cho xe chạy cruise control, bóc vỏ CD và cho vào máy.  Sẽ phải mua cho nó cái khác sau.  Nếu còn tiền.
Josh Ritter nghe cũng được.  Tương tự như Dylan hồi trẻ nhưng thái độ khá hơn.  Trong khi nghe nhạc thì ông lan man nghĩ đến chuyện tiền bạc.  Mua CD cho Kelsie thì dễ rồi.  Nếu Barb quả thực đã làm điều nàng nói thì ông không biết đào đâu ra tiền để cho con gái học nốt năm chót ở Case Western.
Ông vặn ra-đi-ô to lên để quên đi những vấn đề ưu tư nhưng khi lái đến Gardiner thì CD hết.  Anh chàng quá giang đã quay người quay mặt  về hướng cửa kính.  Monette có thể thấy được mặt sau của chiếc áo khoác bạc màu, và những sợi tóc lưa thưa phủ xuống cổ áo.  Đầu hắn gục xuống và hơi thở làm mờ cửa kính bên hành khách.
Monette còn CD khác trong hộc xe nhưng quyết định tắt ra-đi-ô.  Và sau khi ông lái qua trạm thu phí Gardiner mà không phải dừng lại vì có E-Zpass, thì ông bắt đầu nói chuyện một mình.


3
Monette ngừng kể chuyện và nhìn đồng hồ đeo tay.  Mười-hai giờ kém mười-lăm, mà ông cha nói có hẹn khách lúc trưa.
“ Thưa cha, con xin lỗi chuyện kể giông dài quá mà không biết cách nào nói ngắn hơn…”
“ Không sao.  Chuyện kể nghe hay quá.”
“ Còn khách…”
“ Thì họ phải chờ cho cha làm việc mục vụ chớ.  Này con, thế cái người đi quá giang có ăn cướp con không?”
“ Không,” Monette nói.  “ Con không mất tiền bạc chi cả.  Có mất chăng là sự bình an tâm hồn.  Cái đó có tính không?”
“ Chắc chắn là có rồi.  Thế nó làm cái gì?”
“ Chẳng làm gì cả.  Chỉ ngồi nhìn ra cửa kính bên hông.  Tưởng là ngủ nhưng sau này mới biết là không phải.”
“ Thế con làm cái gì?”
“ Con nói về vợ con,” Monette nói.  Rồi ông ngừng và đắn đo.  “ Không phải.  Con nói cho nhẹ lòng, và nói về vợ con. … Hắn vừa câm vừa điếc cha biết không? Con có thể thố lộ hết mà không sợ nghe phân tích, cho ý kiến, hay khuyên nhủ.  Hắn câm, hắn điếc, lại còn ngủ say nữa- tưởng hắn ngủ say- con có thể nói cái đéo gì chẳng được.” “ Con xin lỗi cha.”
“ Thế con nói những cái gì” ông linh mục hỏi.
“ Con nói vợ con năm nay đã năm-mươi-tư,” Monette nói.  “ Đó là điều con nói đầu tiên bởi vì ---bởi vì đó là điều con không thể hiểu được.”


4
Sau khi qua khỏi mấy cái trạm thu phí ở Gardiner thì xa lộ Maine chạy bon bon không ngừng, qua những cánh đồng và những khu rừng, thỉnh thoảng mới có một cái nhà di động có gắn dĩa vệ tinh trên mái và một chiếc xe tải đậu bên hông.  Trừ mùa hè ra, còn không thì con đường ít thấy xe chạy qua.  Mỗi chiếc xe là một thế giới riêng tư nho nhỏ, chẳng khác nào một cái toà giải tội lưu động.  Và như nhiều người đi xưng tội khác, ông bắt đầu một cách chậm rãi.
“ Tôi đã có vợ,” ông nói.  “ Tôi đã năm-mươi-lăm và vợ tôi năm-mươi-tư.”
Ông trầm ngâm suy nghĩ trong khi cần gạt nước quẹt qua quẹt lại.
“ Năm mươi-tư!   Lấy nhau hai-mươi-sáu năm.  Một đứa con gái dễ thương.  Kelsie Ann.  Nó đi học ờ Cleveland và tôi không biết làm cách nào để cho nó học tiếp, vì hai tuần trước đây, vợ tôi trở như ngọn núi lửa St. Helens, nổ tung mà hoàn toàn không có một cảnh báo gì hết.  Nàng có tình nhân được gần hai năm.  Hắn là thầy giáo nhưng nàng gọi hắn là Cao-Bồi Bob.  Té ra những buổi tối tôi tưởng nàng đi họp thì thật ra là đi uống rượu và đi nhảy với thằng chó đẻ Cao-Bồi Bob.”


Chuyện khôi hài như sitcom trên tivi.  Nhưng mắt ông sao thấy cay xè.  Ông liếc nhìn qua bên phải, anh quá giang đang gục đầu vào cửa kính hành khách.  Ngủ say.  
Monette chưa hề nói với ai về chuyện ngoại tình của vợ.  Kelsie vẫn chưa biết.  Nhưng rồi thì chuyện sẽ nổ bùng lên.  Trước khi đi thì hai, ba người ký giả đã gọi điện thoại nhưng ông từ chối không nói chuyện.  Bây giờ thì ông đang rút ruột rút gan ra mà , như hát một mình trong phòng tắm.  Cho nó nhẹ người.


“ Nàng năm mươi tư tuổi rồi chứ ít ỏi gì,” ông nói.  “ Không thể tưởng tượng được.  Có nghĩa là khi nàng quen nó, tên thật của nó là Robert Yandowski khi nàng đã năm mươi hai.  Cái tuổi đủ để hiểu phải không ạ? Đâu có phải là trẻ người non dạ gì cho cam? Trời ơi, nàng đã đeo kính lão, thế mà đi ngủ với thằng này trong một khách sạn rẻ tiền được.  Trong khi tôi cho nàng một căn nhà khang trang ở Buxton, ga-ra hai xe, và chiếc Audi mướn dài hạn mà nàng bỏ đi hết để đi say sưa ở những cái bar rồi về rậm rật với một thằng đã sáu mươi tuổi!”


Ông nghe tiếng mình gào to và tự nhủ phải ngừng lại, nhưng rồi thấy người khách quá giang nằm yên không nhúc nhích và nhận ra rằng mình chẳng có lý do gì  phải ngừng.  Ông đang ngồi trong xe của mình, trên xa lộ liên bang I-95, ở giữa đồng không mông quạnh.  Hành khách của ông là một người vừa câm và điếc.  Muốn gào thì cứ việc gào chứ sợ gì ai.
Ông gào tiếp.
“ Barb khai ra hết.  Nàng không khiêu khích mà cũng chẳng xấu hổ.  Nàng có vẻ... bình thản. “
Và nói lỗi một phần nơi ông.
“ Quả là tôi có đi làm xa thường xuyên thực.  Nội năm ngoái không thôi đã hơn ba trăm ngày rồi.  Nàng ở nhà một mình.  Con gái xong trung học là đã đủ lông đủ cánh bay xa rồi.  Thì lỗi tại tôi vậy. ”

5
Ông nói với bóng người bên kia bức tường giải tội, mắt nhìn thẳng vào hàng chữ VÌ MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐÃ PHẠM TỘI, THIẾU MẤT SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜi,
“ Nói với một người thứ hai khác với nói một mình.  Cha có hiểu không?”
“ Hiểu quá đi chứ,” vị linh mục trả lời,  “ Cho dù con đã không gần gũi với giáo hội nhưng con cũng phải biết.  Xưng tội làm lòng mình được thoải mái.  Người ta đã biết điều này cả hai ngàn năm nay rồi.”
Monette đã bắt đầu đeo dây ảnh thánh Christopher trên ngực thay vì treo trên kính chiếu hậu như xưa.  Lái xe bao nhiêu lâu trong những điều kiện thời tiết như thế này mà chẳng việc gì thì biết đâu cũng nhờ sự che chở của tấm mề đay này.  
“ Con, thế rồi vợ con còn làm gì khác nữa ngoài chuyện ngoại tình với anh Cao Bồi Bob này?”
Monette phì cười và chính mình cũng ngạc nhiên.  Bên kia cánh cửa lưới, ông cha cũng phá lên cười.  Nhưng hai cái cười không giống nhau.  Một người vì thấy khôi hài, người kia chỉ để cố xua đuổi cơn điên cuồng.
“ Còn cái chuyện đồ lót,” ông nói.

6
“ Nàng mở tủ quần áo cho tôi xem,” ông nói với người đi nhờ xe.  Hắn ta vẫn ngồi thọt người trong ghế xe và quay mặt đi, trán tựa vào cửa và hơi thở làm mờ kính.  Giữa hai chân, tấm bảng nằm trên bịch với hàng chữ TÔI BỊ CÂM !  ngửa  lên.  “ Toàn là đồ ngủ và nội khố: Yếm trong yếm ngoài, sú chiêng tất lụa, tất cả vẫn còn nguyên xi trong bịch. Cả ngàn cái !  Mà đâu phải của rẻ.  Đa số là hàng Victoria Secret, nhưng cũng có những thứ mang nhãn hiệu của những tiệm đắt tiền.  Chưa hết.  Còn giầy nữa.  Giầy cao gót.“
Một chiếc xe vận tải từ từi qua mặt.  Monette chớp đèn pha cho xe qua.  Người tài xế chớp đèn sau xe cám ơn.  Ngôn ngữ ước hiệu của người lái xe đường trường.


“ Khi tôi hỏi tại sao thì nàng không giải thích được.  “ Mua riết thành cái tật không bỏ được,” nàng nói.  “ như ve vuốt trước khi làm tình.”  Không hổ thẹn.  Cũng chẳng thách đố. Rồi tôi hỏi tiền đâu ra mà có.  Tôi xét biên lai thẻ tín dụng hàng tháng, có thấy gì đâu.  Và rồi nàng thú nhận tội thụt két. “


7
“ Thụt két,” ông cha lập lại.  Monette không biết cái tội này có bao giờ được xưng trong phòng giải tội này bao giờ chưa nhưng tội ăn cắp thì chắc chắn có rồi.
“ Nàng làm cho Cơ Quan Hành Chánh Học Khu 19 phía nam của Portland…”
“ Vợ con là giáo sư à?”
“ Không.  Giáo sư thì làm gì có cơ hội đụng chạm đến tiền bạc.  Barb là thư ký cho ông Giám Đốc Học Khu.  Mấy lần tụi này có mời hai vợ chồng ông ta đến nhà ăn tối.  Rất dễ thương và bình dân.  Đảm trách hơn một chục trường, trung học lẫn tiểu học.  Ngân sách khá lớn.”
Monette ngừng nói.
“ Barb có trách nhiệm chi thu.  Nàng giữ tập ngân phiếu.”


8
Mưa mỗi lúc một nặng hạt hơn.  Monette tự động chạy chậm lại trong khi những xe khác ào ào qua mặt, để lại những đám mây nước.  Kệ mẹ chúng nó.  Phía bên cạnh, anh quá giang cựa quậy.
“  Dậy chưa ông bạn?” Một câu hỏi thừa thãi nhưng tự nhiên.
Hắn ta phát ra một tiếng kêu từ đầu đàng kia.   Phẹẹẹẹt.  Âm thanh tương đối lịch sự, không kêu to quá, và quan trọng hơn, không thối.  
“ Được rồi,” Monette nói, để ý nhìn đường lại.  “ Nói tới đâu rồi nhỉ?”
Phải rồi, Thụt két.  Một trăm hai chục ngàn đô! Một số tiền đáng kể.  Ông hỏi còn bao nhiêu tiền, và nàng nói- vẫn với vẻ bình tĩnh như mơ ngủ- là không còn đồng nào.
“ Rồi tôi hỏi là sao mà có thể tiêu hơn một trăm ngàn cho đồ lót được,” Monette nói với người đồng hành im lặng.  “ Và nàng nói, “ chúng tôi bắt đầu mua vé số, mong là có thể gỡ tiền lại được bằng cách đó.”
Monette ngừng nói, nhìn cần gạt nước quét qua quét lại.  Ông chợt nảy ý định quẹo phải bất thình lình và lao xe vào chân cầu xa lộ phía trước nhưng lập tức bỏ đi ý định.  Thay vào đó, ông tiếp tục lái xe dưới cầu vẫn giữ tốc độ 50 dặm một giờ.  Kính xe khô queo được hai giây rồi cần gạt lại tiếp tục làm việc và Monette lại kể tiếp.  
“ Chắc ít có ai mua nhiều vé số hơn chúng nó.”  Ông ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu.  “ Nàng nói nội nhật trong tháng mười một vừa qua, chúng nó đã mua hơn hai ngàn vé.  Powerball, Megabucks, Paycheck, Pick 3, Pick 4, Triple Play, cái nào cũng mua.  Lúc đầu còn bày đặt chọn số nhưng sau mua đại EZ pick cho nó lẹ.  Nàng nói có khi hai người chia nhau ra, mỗi người đi một tiệm.  Lúc đầu còn có khi thắng vài trăm, nhưng sau thì chỉ có thua thôi.”
“ Ê ông bạn, có sao không?”
Người hành khách không có phản ứng gì, và Monette lắc mạnh vai hắn.  Anh chàng ngẩng đầu lên và chớp chớp mắt như vừa ngủ dậy.  Không biết vì lý do gì mà Monette nghĩ là anh chàng đang giả bộ ngủ.  
Ông đưa ngón cái lên và nhướng mày nhìn hắn.  Anh chàng đi quá giang ngẩn người ra một hồi nhưng rồi hiểu ra, nhoẻn miệng cười và cũng đưa ngón cái lên.  
“ Okay,” Monette nói.  “ Lâu lâu phải kiểm soát cho chắc ăn.”
Người đàn ông lại tựa đầu lên cửa kính.  Trong khi đó thành phố Waterville đã trôi tuột lại đàng sau vào trong màn mưa.  Monette không để ý.  Ông đang sống trong quá khứ.  
“ Nếu như chỉ quần áo lót và vé số không thôi thì thiệt hại có thể cũng chỉ giới hạn,” ông nói.  “ Vì chơi xổ số kiểu đó cũng đòi hỏi thì giờ.  Phải đứng xếp hàng mua vé.  Rồi phải đợi coi kết quả trên TV hay đọc báo dò số.  Nếu chỉ thua độ ba chục ngàn trở lại thì tôi còn có thể mượn nợ từ căn nhà để trả.  Làm vậy chỉ vì con thôi chứ còn vợ thì, hà, còn lâu.  Cái vấn đề là có cách để đốt tiền nhanh hơn, mà nó hợp pháp như là...như là mua xì líp.”  


9
“ Họ bắt đầu chơi vé cạo hả” ông cha hỏi.  “ Cái mà Hột Đồng Xổ Số gọi là thắng liền đó phải khng?”
“ Nghe có vẻ như cha cũng rành quá nhỉ,” Monette nói.  
“ Thỉnh thoảng,” ông cha nói.  “ Tôi luôn tự nhủ là hễ mà thắng thì thế nào cũng cho nhà thờ hết.  Không bao giờ mua quá 5 đồng mỗi tuần.” ngần ngừ.  “ Có khi 10 đồng.  Có một lần 20 đồng nhưng không bao giờ làm lại.”
“ Chưa bao giờ.  Không phải không bao giờ.”  Monette nói.
Vị linh mục khúc khích cười.  “ Đúng là bị một lần tởn tới già.” Ông thởi dài.  “ Nghe chuyện của con hay đến mê mẩn cả người, nhưng nói nhanh lên được không? Khách nó đâu có chờ mãi được và nghe đâu họ mang món xà lách gà, có nhiều mayo.  Món cha thích nhất.”
“ Cũng sắp xong rồi,” Monette nói.  “ Vé cạo mua đâu cũng có.  Nhiều chỗ mua thẳng từ máy, chẳng phải nói chuyện với ai cả.  Và đến khi nàng thú tội thì chúng mua toàn là vé 20 đồng không thôi.”
“ Thế con đánh vợ con chứ gì? đó là lý do con đi xưng tội phải không?”
“ Không,” Monette nói. “ Con muốn giết nó.  Nhưng con không động đến một cọng lông chân nó.  Con hỏi sao nó có thể làm như vậy được? và nó nói…”


10
“ Nàng hỏi sao mà không biết,” Monette bảo anh quá giang.  “  Chưa kịp nói thì đã tự trả lời.  Nói tôi không biết vì không thèm biết.  Đi tối ngày, có bao giờ để ý đến ai.  Giờ có để ý thì cũng đã muộn rồi.  Tôi chỉ biết ngồi nhìn.  Làm gì bây giờ   Ai đời dám đổ thừa lỗi tại tôi, tại công việc của tôi không?  ngần này tuổi rồi còn kiếm được việc gì bây giờ?”
Xa xa, đàng sau đám mưa mù, là một tấm bảng màu xanh.  
Ông ngẫm nghĩ rồi nói tiếp.  “ Tôi không muốn lớn tiếng cãi cọ vì sợ không dằn được cơn thịnh nộ.  Bỏ đi khi còn tỉnh táo là tốt nhất.”
Người quá giang vẫn im lìm không nói.
“ Tôi nói “ Rồi bây giờ làm sao?” và nàng nói, “ Thì đi tù chứ sao nữa bây giờ.”
Giả sử như lúc ấy nàng khóc thì chắc tôi cũng đã ôm để an ủi.  Sau hai mươi sáu năm chung sống nó thành phản xạ.  Nhưng nàng không hề khóc và tôi quay lưng bỏ đi.  Khi trở lại thì nàng đã dọn đi mất.  Hai tuần rồi chưa gặp lại.  Có nói chuyện điện thoại vài lần.  Nói chuyện với cả luật sư.  Đóng hết mấy chương mục nhưng cũng chẳng ăn thua gì.  Bánh xe công lý một khi đã xoay rồi thì quá trễ.  Giờ chỉ đợi ngày ra tòa.”
Bây giờ thì ông mới thấy tấm bảng: TRẠM NGHỈ PITTSBURG, 2 miles.
“ Bỏ mẹ rồi.” ông la lên.  “ Mình đi quá Waterville mất 15 dặm rồi.” Nhưng khi anh câm vẫn nằm yên không cựa quậy thì Monette nhớ là đâu chắc hắn muốn đi Waterville.  Đến trạm nghỉ rồi tính sau, nhưng trong khi còn trong cái tòa giải tội lưu động này thì còn một chuyện phải nói cho hết.  
“ Thực tình mà nói thì đúng là tôi đã hết yêu nàng từ lâu,” ông nói.  “ Và lâu lâu cũng có cái này cái kia chứ không phải là hoàn toàn chung thủy. Nhưng đó đâu phải là cái lẽ để mà phá banh xác pháo cái gia đình này?
Ông lái xe vào trạm nghỉ.  Bãi đậu xe có bốn chiếc xe đậu tùrm húm cạnh cái bin đinh màu nâu có vài máy bán kẹo, nước đàng trước.  Khi ông dừng xe thì người quá giang ngẩng mặt, thắc mắc nhìn ông.
“ Anh muốn đi đâu?” Monette hỏi dẫu biết là vô vọng.
Anh câm nhìn quanh quất rồi quay lại nhìn Monette như muốn nói, không phải chỗ này.
Monette chỉ về hướng Nam và nhướng mày.  Anh câm lắc đầu rồi chỉ về hướng Bắc và xoè tay tám lần.  Y hệt như lúc nãy.  Nhưng lần này thì Monette hiểu.
“ Chú mày chắc đi lang thang, không có nơi chốn nhất định phải không?”  Monette hỏi.
Anh câm vẫn trố mắt ra nhìn.
“ Chắc chắn rồi,” Monette nói.  “ Thôi được, chú mày đã có công ngồi nghe, mặc dù không hiểu, thì ta sẽ chở chú mày tới Derry luôn.  Ta phải đi đái.  Chú mày có mót đái không?”
Anh câm nhìn bằng ánh mắt ngây ngô, trống vắng.
Monette định chỉ vào quần nhưng sợ anh câm nghĩ mình đề nghị chuyện thô bỉ nên chỉ vào hình bóng in trên tường hai bên bin đinh- một đàn ông một đàn bà.  Hình người đàn ông dạng chân còn đàn bà thì khép lại.  Lịch sử loài người tóm tắt lại bằng ngôn ngữ biểu thị.
Cái này thì hiểu.  Anh câm lắc đầu và đưa ngón cái ra dấu không sao.  Vấn đề là để ông ma cà bông này trong xe trong khi mình đi làm nghĩa vụ hay bắt hắn đứng đợi ngoài mưa.  
Không thành vấn đề, Monette quyết định.  Trong xe không tiền không bạc, còn hành lý thì để trong thùng sau có khóa.  Hàng mẫu nằm trong xe nhưng anh không nghĩ nó sẽ ăn cắp cái va li nặng nề để rồi đi loong toong dọc xa lộ.  Rồi tay đâu mà cầrm bảng TÔI CÂM.  
“ Rôi sẽ trở lại ngay,” Monette nói và anh câm gật đầu, đưa ngón cái lên.  
Monette vào toa lét đứng đái một hồi lâu.  Anh cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn lên và chợt ý thức là mình có thể sẽ vượt qua được cơn bỉ cực này.  Anh nghĩ đến một thành ngữ không nhớ của Nga hay của Đức, có vẻ là lối người Nga nhìn cuộc đời thì phải: Cái gì không giết được ta thì sẽ làm cho ta mạnh hơn.  
Anh trở về xe, vừa đi vừa huýt sáo.  Thoạt tiên anh tưởng hắn nằm xuống nên không thấy đầu.  Nhưng người xin quá giang đã biến mất.  Monette kiểm soát băng sau thì thấy chiếc va li Wolfe & Son vẫn còn đó.  Nhìn vào ngăn trên cũng không thấy có gì suy suyển.  Anh nghĩ bụng nếu thấy anh chàng thì sẽ ngừng lại cho đi quá giang tiếp.  Nhưng không thấy bóng dáng anh câm đâu cả.  Và mãi cho đến khi gần tới Derry thì Monette mới khám phá ra là cái dây mề đay Thánh Christopher treo trên kiếng chiếu hậu, bạn đồrng hành của hàng vạn dặm, đã biến mất.  Monette thầm hy vọng nó sẽ mang lại cho hắn may mắn.  
Hai ngày sau ông nhận được điện thoại của cảnh sát tiểu bang Maine cho biết vợ ông và Bob Yandowsky đã bị đánh chết trong khách sạn Grove.  Hung thủ đã dùng một ống nước bằng sắt bọc bằng khăn tắm khách sạn làm vũ khí.


11
“ Chúa ơi.” ông linh mục thốt lên.  “ Còn con gái ông…?”
“ Dĩ nhiên là nó bị sốc nặng.  Nó hiện đang ở nhà với con.  Rồi cũng sẽ qua.  Dĩ nhiên nó chẳng biết gì những vụ kia.  May là con có nhân chứng rõ ràng chứ không thì cũng lôi thôi.  Vậy mà vẫn bị kêu lên kêu xuống thẩm vấn.”
“ Có chắc là con không mướn ai…”
“ Họ cũng đặt vấn đề đó ra.  Con đưa hết giấy tờ nhà băng ra cho họ coi.  Tiền bạc chi tiêu đâu ra đó, rõ rành rành.  Này cha, cha có thể mở cửa ra được không?  Con muốn cho cha coi cái này.”
Vị linh mục mở cánh cửa ra.  Monette tháo sợi dây treo tượng Thánh Christopher ra trao cho ông.  
Ông cha lặng yên không nói một lúc lâu.  Rồi ông nói.  “ Anh nhận được sợi dây này hồi nào?  Có phải ở khách sạn…”
“ Không,” Monette nói. “ Không phải ở khách sạn mà ở nhà tại Bruxton.  Trên cái bàn phấn trong phòng ngủ.  Kế tấm hình cưới. “
“ Chúa ơi.” ông cha nói.
“ Hắn có thể lấy địa chỉ từ giấy tờ đăng bộ trong hộc xe trong khi con đi đái.”
“ Và dĩ nhiên con có nói hắn nghe tên khách sạn..và thành phố.”
“ Dowrie,” Monette đồng ý.  
Ông cha lại kêu tên đức Chúa Trời vô cớ một lần thứ ba.  Rồi ông nói.  “ Vậy là nó đâu có câm điếc gì đâu?”
" Con nghĩ là hắn có câm,” Monette nói.  “ Nhưng hắn chắc chắn không điếc chút nào.  Có một mẩu giấy nằm cạnh tấm mề đay.  Tất cả chắc xảy ra khi hai bố con con đang ở nhà quàn để chọn quan tài.  Có lẽ con đã để quên cửa sau không khóa.”
“ Mẩu giấy viết gì?”
“ “Cám ơn ông đã cho ̣đi quá giang"” Monette nói.
“ Thế con có báo cảnh sát không?”
“ Có chứ.  Khai từ đầu tới đuôi.  Họ nghĩ là họ biết đó là ai.  Tên hắn là Stanley Doucette.  Hắn lang thang khắp New England cầm cái bảng ấy. “
“ Có tiền án không?”
“ Vài cái,” Monette nói.  “ Đánh lộn đánh lạo.  Có lần hắn đánh một người trong quán rượu gần chết.  Ra vào nhà thương điên như cơm bữa.  Con nghĩ là cảnh sát họ không nói hết cho con nghe.”
“ Thế con có muốn biết không?”
Monette suy nghĩ rồi nói.  “ Không.”
“ Họ chưa bắt được người này à?”
“ Họ nó là chẳng chóng thì chầy, thể nào cũng bắt được.  Họ nói hắn không được thông minh cho lắim.  Nhưng đủ thông minh để đánh lừa con.”
“ Có thực là nó đã đánh lừa được con không? Hay là con biết là nó không điếc?  Đó mới chính là câu hỏi.”
Monette im lặng một hồi lâu.  Tự vấn lương tâm.
“ Không, con không biết nó không điếc.”
“ Con có mừng là vợ con và người tình đã chết không?”
Trong thâm tâm, Monette trả lời ngay lập tức.  Ông nói: “ Thành thật mà nói, con cảm thấy nhẹ nhõm.  Đó có phải là tội không?”
“ Có, con ạ.”
“ Cha có thể tha tội cho con được không?”
“ Mười kinh Lạy Cha, mười kinh Kính Mừng,” ông cha nói ngay, “ Kinh Lạy Cha tội thiếu đức thương người- tội, nhưng không phải là tội trọng.”
“ Còn kinh Kính Mừng?”
“ Tội nói tục trong tòa giảng.  Khi khác sẽ tính đến tội gian dâm, nhưng giờ thì….”
“ Biết rồi, phải đi ăn trưa.”
“ Thú thật, hết muốn ăn rồi, nhưng phải gặp họ.”
“ Con hiểu.”
“ Tốt.  Nhưng này?”
“ Dạ?”
“ Nói thì nó ra người nói nhiều, nhưng con có chắc đã không tỏ ý ưng thuận không? Hay khuyến khích dưới hình thức nào đó?  Bởi vì nếu quả vậy thì ra là tội trọng chứ không phải tội nhẹ.  Ta phải hỏi cha bề trên cho chắc.”
“ Thưa cha không.  Nhưng cha có nghĩ là việc nó đi quá giang xe con có thể là ý Chúa không?”
Thâm tâm vị linh mục nói có nhưng bên ngoài thì ông nói.  “ Nói thế là phạm thượng, thêm mười kinh Lạy Cha.  Không biết con bỏ đạo bỏ nghĩa bao lâu nhưng người có đạo phải biết chứ.  Sao? nói xong chưa? hay là muốn thêm vài kinh Kính Mừng nữa?”
“ Dạ xong.”
“ Hãy đọc kinh ăn năn tội và cảm tạ Chúa vì Người rất nhân lành.  Về mà lo cho con cái. “
“ Cám ơn cha, xin cha cầu nguyện cho con.”
“ Ta hỏi con một điều nữa được không?”
“ Dạ được.”   Monette hơi ngần ngừ.  Muốn đi cho rồi.
“ Cảnh sát nghĩ là họ sẽ bắt được người này hả?”
“ Họ nói trước sau gì cũng bắt được.”
“ Điều ta muốn hỏi là, con có muốn cảnh sát bắt được hắn không?”
Và vì ông muốn về, đền tội kín đáo trong xe mình, Monette nói.  “ Dĩ nhiên là muốn.”
Trên đường về, ông đọc thêm hai kinh Kính Mừng và hai kinh Lạy Cha.