Tuesday, December 1, 2015

MỘT CÁI CHẾT

MỘT CÁI CHẾT

STEPHEN KING



Jim Trusdale sống trong một túp lều tranh bên hông cái nông trại điêu tàn của cha hắn.  Khi Cảnh Sát Trưởng Barclay cùng dăm người dân quân đến nơi thì hắn đang ngồi trên cái ghế đẩu cạnh bên bếp lò nguội lạnh.  Hắn mặc áo ka-ki và đang đọc tờ báo cũ dưới ánh đèn dầu.
Cảnh Sát Trưởng Barclay tay cầm đèn măng xông, đứng che kín cánh cửa ra vào.
“ Jim, bước ra ngoài, đưa hai tay lên trời.  Đừng bắt tao phải rút súng.”
Trusdale bước ra, hai tay giơ lên trời, một tay vẫn còn cầm tờ báo.  Hắn nhìn ông Cảnh Sát Trưởng và toán người tùy tùng, bốn người cưỡi ngựa và hai người ngồi trên chiếc xe ngựa in hàng chữ màu vàng phai mờ “ Nhà Hòm Hines.”   Đôi mắt xám vô cảm.  
“ Mày không thắc mắc tại sao chúng tao đến đây sao?” Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.
“ Mấy ông đến đây làm gì?”
“ Mũ mày đâu?”
Trusdale dùng tay không cầm báo, rờ đầu như kiếm cái mũ nâu không có đó.
“ Trong nhà phải không?” ông Cảnh Sát Trưởng hỏi.  Một cơn gió lạnh thổi ngang làm tốc bờm ngựa và làm cánh đồng cỏ rạp xuống như một gợn sóng chẩy về hướng Nam.  
“ Không,” Trusdale nói.  “ Không có trong nhà.”
“ Vậy thì đâu?”
“ Chắc mất rồi.”
“ Leo lên xe ngựa,”  ông Cảnh Sát Trưởng nói.
“ Tôi không muốn ngồi xe thổ mộ,” Trusdale nói.  “ Xui xẻo lắm.”
“ Mày mà còn xui xẻo gì nữa,” một người đi theo nói.  “ Mày là ông nội xui xẻo rồi.  Lên lẹ đi.”
Trusdale trèo lên băng sau xe.  Gió lại nổi lên, hắn kéo chiếc áo khoác che kín cổ.
Hai người ngồi sau đi xuống và đứng hai bên.  Một thằng rút súng còn thằng kia thì không.  Trusdale biết mặt nhưng không biết tên mấy thằng dân làng.  Ông Cảnh Sát Trưởng cùng bốn thằng kia đi vào túp lều của hắn.  Một đứa là thằng Hines, chủ nhà đòn.  Chúng nó ở trong đó một hồi lâu.  Chúng mở cả bếp lò và khơi đám tro tàn và cuối cùng thì đi ra.
“ Không thấy gì hết,” ông Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.
“ Mất cái mũ tui tiếc quá.  Của ông già cho.  Ổng đương đội trên đầu thì lấy ra cho tui.”
“ Vậy thì đâu rồi?”
“ Thì nói rồi.  Chắc mất rồi.  Hay đứa nào chôm mất cũng không chừng.  Thôi tới giờ tui lên chuồng rồi.”
“ Không có lên chuồng lên chiếc gì hết.  Mày xuống phố hồi chiều phải không?”
“ Chắc chắn rồi,” một thằng nói trong khi leo lên ngựa. “ Tui thấy nó tận mắt.  Rõ ràng là có đội nón.”
“ Câm miệng lại, Dave,” Cảnh Sát Trưởng Barclay nói.  “ Mày có ra phố không hả Jim?”
“ Dạ có.” Trusdale nói.
“ Vào quán Chuck-aLuck?”
“ Đúng.   Tui đi bộ ra quán, uống hai ly rồi đi bộ về.  Chắc làm mất cái nón trong Chuck-a-Luck.”
“ Đó là lời khai của mày phải không?”
Trusdale ngẩng đầu nhìn lên bầu trời ảm đạm của tháng mười một.
“ Nhìn mặt tao coi.”
Trusdale nhìn ông.
“ Đó là lời khai của mày phải không?”
“ Tôi nói rồi. Đó là sự thực.”  Trusdale nói, mắt nhìn thẳng.
Cảnh Sát Trưởng Barclay thở dài.  “ Được rồi, theo tao xuống phố.”
“ Làm gì?”
“ Mày bị bắt.”
“ Người đâu ra mà ngu tàn nhẫn luôn,”  một thằng đàn ông nói.  “ Ông già nó đâu đến nỗi vậy.”
Họ đi vào phố.  Đường dài độ sáu cây.  Trusdale ngồi sau xe ngựa run lập cập vì lạnh.  Người cầm dây cương ngựa nói mà không ngoảnh mặt lại, “ Mày cướp tiền rồi có hiếp nó luôn không, thằng khốn nạn?”
“ Mấy người nói gì tôi không hiểu,”  Trusdale nói.
Đoạn đường còn lại, họ đi trong yên lặng.  Trong phố, người ta đứng hai bên đường.  Lúc đầu họ không nói gì nhưng rồi một bà già quấn khăn choàng cổ màu nâu khập khễnh chạy theo chiếc xe thổ mộ  và nhổ nước bọt vào Trusdale.  Tuy không trúng nhưng người ta cũng vỗ tay ầm ĩ.
Khi đến nhà lao, Cảnh Sát Trưởng Barclay giúp Trusdale bước xuống xe.  Cơn gió lại nổi lên, mang theo mùi tuyết.  Những cuộn cỏ dại lăn xuống con đường chính về hướng hồ chứa nước, tụ lại một đống cạnh hàng rào gỗ.
“ Treo cổ quân giết trẻ con!” một người đàn ông thét to.  Một người ném cục đá bay ngang đầu Trusdale và lăn sổn sảng trên lối gỗ dành cho người bộ hành.
Cảnh Sát Trưởng Barclay quay lại, nâng cao chiếc đèn măng xông và đưa mắt nhìn đám đông tụ tập trước cửa tiệm chạp phô.
“ Đừng làm vậy,” ông nói.  “ Để nhà chức trách làm việc.”
Ông Cảnh Sát Trưởng nắm cánh tay Trusdale lôi đi qua văn phòng rồi dắt vào trong phòng giam bên trái.  Có một cái giường, một cái ghế đẩu, và một cái bô.  Trusdale định ngồi xuống ghế thì Barclay nói,
“ Không.  Đứng yên đó.”
Ông Cảnh Sát Trưởng nhìn đám dân quân tụ tập trước cửa ra vào.
“ Mấy cha đi ra ngoài hết,” ông nói.
“ Otis,” thằng tên Dave nói, “ Lỡ nó tấn công ông thì sao?”
“ Tôi đã có cách trị nó.  Cám ơn.  Nhưng giờ thì đi chỗ khác chơi đi.”
Khi họ đi rồi, Barclay nói, “ Cởi áo khoác ngoài ra đưa cho tao.”
Trusdale cởi chiếc áo ka-ki.  Bên trong hắn không mặc gì ngoài một cái áo thun và cái quần corduroy rách tả tơi.  Cảnh Sát Trưởng Barclay lục túi áo khoác và tìm thấy một nhúm thuốc lá gói trong trang giấy báo, một vé số cũ, và một hòn bi màu đen.
“ Cái đó là hòn bi hên của tôi,” Trusdale nói.  “ Có cái đó từ hồi bé.”
“ Móc túi quần ra.”
Trusdale móc túi quần.  Hắn có một đồng một xu, ba đồng năm xu và một trang quảng cáo tìm vàng ở Nevada trông cũ không kém tờ vé số.
“ Cởi giầy ra.”
Trusdale cởi giày.  Barclay rờ tay bên trong.  Đế giày có một cái lỗ to bằng đồng mười xu.
“ Cởi vớ ra.”
Barclay lộn vớ ra ngoài rồi đáp qua một bên.
“ Cởi quần ra.”
“ Tôi không muốn cởi quần.”
“ Bộ mày tưởng tao muốn nhìn hả.  Cởi ra đi cha nội.”
Trusdale cởi quần dài ra.  Hắn không mặc quần lót.
“ Cúi xuống, vạch mông ra.”
Trusdale quay lại, vạch mông ra.  Cảnh Sát Trưởng Barclay nhăn mũi, thở dài, rồi thọc một ngón tay vào hậu môn hắn.  Trusdale rên rỉ.  Barclay lấy ngón tay ra và quệt ngón tay vào áo thun của Trusdale.
“ Cái đó đâu rồi Jim?”
“ Cái mũ hả?”
“ Bộ mày tưởng tao thọc tay lỗ đít mày để kiếm cái mũ ấy à? Bộ mày tính giỡn mặt với tao chắc?”
Trusdale kéo quần lên và cài nút lại.  Rồi hắn đứng run lập cập.  Một tiếng trước đây hắn đang ở nhà đọc báo và nghĩ đến chuyện nhóm lửa bếp, và cái đó tưởng như đã xa xôi lắm rồi.
“ Mũ mày tao để trong văn phòng,”
“ Thế thì tại sao ông hỏi tôi?”
“ Hỏi để coi mày nói cái gì.  Cái tao muốn biết là mày dấu đồng bạc đô la của con bé ở đâu.  Không có trong nhà mày, trong túi mày, hay trong lỗ đít mày.  Có phải mày sợ nên vất đi không?”
“ Tôi chẳng biết gì về đồng đô la nào cả.  Cho tôi xin cái mũ lại được không?”
“ Không.  Đó là tang chứng.  Jim Trusdale, tao bắt mày vì tội giết Rebecca Cline.  Mày có gì để nói không?”
“ Tôi chẳng biết Rebecca Cline nào cả.”
Ông Cảnh Sát Trưởng ra khỏi phòng giam, đóng cửa, lấy chìa khoá máng trên tường và khóa lại.  Ổ khóa kêu ken két.  Phòng giam thường dùng để giữ mất thằng say và ít khi nào khóa lại.  Ông nhìn vào Trusdale và nói, “ Tao tội nghiệp cho mày.  Lửa hỏa ngục không đủ nóng cho mấy thằng phạm tội ấy.”
“ Tội gì?”
Ông Cảnh Sát Trưởng quay mặt bỏ đi mà không trả lời.
Trusdale ở trong nhà lao, ăn thức ăn của quán Mother’s Best gửi qua, ngủ trên giường, ỉa đái vào bô.  Cha hắn không đến thăm vì đã bị lẫn trí và đang ở với hai bà mọi da đỏ, một người thuộc bộ lạc Sioux và người kia, Cheyenne.  Còn anh nó thì đang ở bên Nevada đi tìm vàng.


Thỉnh thoảng lũ con nít đứng ngoài chấn song hát, “ Ông thắt cổ, ông thắt cổ, xuống đây đi.”   Có người đe dọa cắt cu nó.  Có lần bà mẹ của Reebecca Cline đến nói sẽ tự tay treo cổ hắn.  
“ Sao mày nỡ giết con tao?”  Bà hỏi qua khung cửa sắt.  “ Nó mới có mười tuổi đầu.”
“ Thưa bà,” Trusdale đứng trên giường nhìn xuống qua chấn song, nói. “ Tôi không giết con bà hay bất kỳ một ai.”
“ Thằng mọi đen nói láo,” Nói xong bà bỏ đi.
Cả phố ùa đi đám ma con bé.  Mấy bà mọi da đỏ cũng đi.  Cả hai ả gái giang hồ làm cho quán Chuck-a-Luck cũng đi.  Trusdale nghe tiếng hát đám ma vang vọng vào trong khi đang ngồi bô trong góc.


Cảnh Sát Trưởng Barclay đánh điện cho Đồn Fort Pierre.  Một tuần sau thì ông chánh án lưu động đến.  Ông ta mới nhậm chức nên còn khá trẻ.  Trông ông hơi có vẻ công tử, tóc vàng dài tới lưng theo kiểu Wild Bill Hickok.  Tên ông là Roger Mizell.  Ông đeo kính gọng tròn và có vẻ mê gái khi vào Chuck-a-Luck và Mother’s Best mặc dù trên ngón tay có đeo nhẫn cưới.  Trong phố không có luật sư để biện hộ cho Trusdale nên Mizell cho vời George Andrews, chủ tiệm chạp phô và khách sạn Good Rest.  Andrews từng theo học hai năm đại học tại một trường thương mại miền Đông.  Anh nói sẽ biện hộ cho Trusdale nếu ông bà Cline đồng ý.  
“ Thì đi gặp họ,” Mizell nói.  Ông đang ngồi ngửa cho cạo râu ở tiệm hớt tóc.  “ Còn chờ cái gì nữa.”
Sau khi Andrews nói lý do đến gặp thì ông Cline nói.  “ Tôi có thắc mắc này muốn hỏi.  Nếu không có người biện hộ thì liệu họ có treo cổ nó được không?”
“ Làm như vậy không phù hợp với tinh thần công lý của Hợp Chủng Quốc,” Andrews nói.  “ Tuy mình chưa trực thuộc Hoa Kỳ nhưng cũng sắp rồi.”
“ Nó có cách nào gỡ tội được không?” Bà Cline hỏi.
“ Dạ thưa không,” Andrews nói.  “ Không đời nào.”
“ Thế thì đi làm nhiệm vụ của mình đi và chớ gì Thiên Chúa chúc lành cho anh.”


Phiên xử bắt đầu một buổi sáng tháng mười một và kéo dài tới giữa chiều tại hội trường thành phố.  Ngày hôm đó tuyết rắc xuống như đăng ten đám cưới.  Mây xám ùn ùn kéo về, đe dọa sắp có một cơn bão lớn.  Roger Mizell, sau khi nghiên cứu ca xử, sẽ vừa làm luật sư công tố, vừa làm chánh án.  
“ Giống như một anh giám đốc ngân hàng vay tiền nhà băng rồi trả tiền lời cho chính mình,”  một người trong bồi thẩm đoàn nói trong bữa ăn trưa tại Mother’s Best.
Cống tố viên Mizell cho gọi sáu nhân chứng, và chánh án Mizell không hề phản đối.  Ông Cline lên trước tiên, Cảnh Sát Trưởng Barclay cuối cùng.  Kết luận thật giản dị.  Buổi trưa hôm xảy ra án mạng, có một bữa tiệc sinh nhật với bánh và kem.  Nhiều đứa bạn của Rebecca được mời.  Khoảng hai giờ chiều, khi mấy đứa con gái đang chơi trò Gắn Đuôi Lừa và Ghế Nhạc thì Jim Trusdale đi vào Chuck-a-Luck, gọi một cốc whisky.  Hắn đội cái mũ rộng vành.  Hắn nhâm nhi ly rượu và khi hết, gọi một ly khác.
Có lúc nào thấy hắn giở nón ra không?  Có thể treo trên móc cạnh cánh cửa chăng?  Chẳng ai nhớ.
“ Tôi chưa bao giờ thấy hắn không đội mũ,” Dale Gerard, anh phục vụ rượu nói.  “ Hắn thích cái mũ đó lắm.  Nếu có lấy ra thì cũng chỉ để bên cạnh trên quầy rượu.  Hắn uống ly thứ hai rồi đi.”
“ Thế hắn có để lại cái mũ trên mặt bàn khi bỏ đi không?” Mizell hỏi.
“ Thưa không.”
“ Có thấy trên cái móc khi đóng cửa tiệm không?”
“ Thưa không.”
Khoảng 3 giờ chiều ngày hôm đó, Rebecca Cline rời căn nhà mình ở phía nam thành phố để đến tiệm thuốc trên đường Main.  Mẹ nó đã dặn đi dặn lại là chỉ được dùng đồng đô la sinh nhật để mua kẹo mà không được ăn vì cả ngày ăn bánh trái thế là quá đủ rồi.   Khi 5 giờ chiều mà nó chưa về nhà thì ông Cline và vài người đàn ông khác bắt đầu đổ xô đi tìm.  Họ tìm thấy xác nó ở hẻm Barker, giữa trạm xe ngựa và khách sạn Good Rest.  Nó chết vì bị bóp cổ.  Đồng đô la bằng bạc đã không cánh mà bay.  Mãi đến khi ông bố ôm nó vào lòng thì mới phát hiện ra cái mũ da rộng vành của thằng Trusdale nằm dưới cái váy của con bé.  


Trong khi bồi thẩm đoàn nghỉ để ăn trưa thì người ta có thể nghe được tiếng búa gõ chan chát đàng sau trạm xe ngựa cách phạm trường chỉ vài bước.  Người ta đang đóng cái giá để treo cổ.  Công việc được trông nom bởi John House, ông thợ mộc của thành phố.  Sắp tới mùa tuyết và con đường dẫn tới Trại Pierre sẽ không đi được.  Và chẳng có lý do gì để nuôi Trusdale trong tù cho đến mùa xuân.
“ Đóng giàn treo cổ dễ òm à,” House nói với đám người bu lại coi.  “ Một đứa con nít cũng làm được.”
Hắn nói dưới cái cửa sập là một cây đà gắn đòn bẫy đã được thoa mỡ bò cẩn thận.  “ Làm sao để một lần là xong, chứ không phải làm lại mất công lắm.”  Hắn nói.
Buổi chiều hôm đó, George Andrews cho gọi Trusdale lên ghế nhân chứng.  Nhiều người dưới hàng ghế dự khán bắt đầu la ó.  Chánh Án Mizell nện búa, dọa sẽ đuổi sạch ra ngoài nếu còn ồn ào.
“ Ông có vào quán Chuck-a-Luck trong ngày hôm đó không?”  Andrews hỏi sau khi trật tự đã được tái vãn.
“ Dĩ nhiên rồi,”  Trusdale nói.  “ Nếu không sao tôi lại có ở đây.”
Người ta ồ lên cười, và Chánh Án Mizell lại nện búa, nhưng chính ông cũng mỉm cười.
“ Ông có gọi hai ly rượu không?”
“ Dạ phải.  Tôi chỉ đủ tiền cho hai ly thôi.”
“ Nhưng mày đã kiếm ra một đô la khác ngay phải không, thằng khốn?”  Abel Hines thét lên.
Mizell cầm cái búa chỉ vào mặt Hines trước, rồi vào Cảnh Sát Trưởng Barclay sau, đang ngồi trên hàng đầu.
“ Ông cảnh Sát Trưởng, giải người đó ra và bắt giam tội gây mất trật tự tòa án.”
Barclay dắt Hines ra ngoài nhưng không còng tay, chỉ hỏi tại sao làm vậy.
“  Otis, thứ lỗi cho tôi,” Hines nói.  “ Nhìn cái bản mặt nó tôi dằn lòng không nổi.”
“ Thôi đi ra xem thằng John House có cần phụ một tay không,” Barclay nói.  “ Đừng có trở lại cho đến khi mọi sự đã xong xuôi hết.”
Trong khi đó, Trusdale tiếp tục lời khai.  Khi rời Chuck-a-Luck thì hắn không đội mũ nhưng về tới nhà thì mới biết.  Khi đó thì hắn đã hết xíu quách để trở lại phố kiếm.  Vả lại trời lúc đó đã tối.  
Mizell ngắt lời.  “ Bộ anh bắt tòa phải tin là anh đi bộ 6 cây số mà không biết mình không đội nón à?”
“ Dạ tại tôi lúc nào cũng đội mũ nên không để ý.”  Trusdale nó và một tràng cười rộ lại nổi lên trong đám cử tọa.
Barclay đi trở vào và ngồi xuống cạnh Dave Fisher.  “ Họ cười cái gì vậy?”
“ Cái thằng ngu này khỏi cần luật sư công tố.  Nó tự buộc tội nó cũng đủ rồi.”  Fisher nói.
“ Đáng lý không nên cười nhưng khôi hài quá chịu không nổi.”


“ Anh có gặp Rebecca Cline trong cái hẻm đó không?”  George Andrews hỏi bằng một giọng oang oang.  Khi mọi con mắt đều đổ dồn vào mình thì George mới phát giác là mình có tài hùng biện mà trước giờ nào có hay.  “ Có phải anh đã ăn cướp đồng đô la của cô bé không?”
“ Dạ không,” Trusdale nói.
“ Có phải anh đã giết nó không?”
“ Dạ không.  Tôi chẳng biết nó là ai.”
Ông Cline đứng bật dậy và la lên,
“ Chính mày đã giết nó, quân chó đẻ.”
“ Tôi không nói láo.” Trusdale nói, và đó là lúc mà Cảnh Sát Trưởng Barclay tin hắn.
“ Tôi không còn gì để hỏi nữa,”  Andrews nói, rồi đi về chỗ ngồi.
Trusdale nhổm người đứng dậy, nhưng Mizell bảo hắn ngồi xuống trả lời vài câu hỏi nữa.
“  Anh Trusdale.  Thế anh vẫn một mực khẳng định là có người ăn cắp mũ của anh trong khi anh đang uống rượu ở Chuck-a-Luck,  đội cái mũ đó lên đầu, vào con hẻm, giết Rebecca Cline, rồi để lại mũ lại đó để anh bị liên lụy?”
Trusdale yên lặng không nói.
“  Hãy trả lời câu hỏi.”
“ Dạ tôi không hiểu nghĩa chữ liên lụy là gì.”
“ Anh đòi tòa phải tin là có người sắp đặt để anh mang cái tội sát nhân tàn nhẫn này?”
Trusdale suy nghĩ, hai tay vầy vò vào nhau.  Cuối cùng hắn nói,  “ Có thể có ai lấy nhầm mũ của tôi rồi vất đi cũng không chừng.”
Mizell nhìn xuống hàng ghế người dự khán.  “ Trong đây có ai lấy nhầm mũ của ông Trusdale không?”
Không có một tiếng động nào ngoại trừ tiếng tuyết rơi bắn vào cửa sổ.  Cơn bão lớn đầu tiên của mùa đông đã tới.
“ Tôi không còn câu hỏi nào khác,” Mizell nói.  “ Và vì tình trạng thời tiết xấu nên sẽ bỏ lời phát biểu bế mạc.  Bồi thẩm đoàn sẽ trở lại phòng để luận án.  Quí vị có 3 lựa chọn- vô tội, ngộ sát, hay sát nhân gia trọng.”


Cảnh Sát Trưởng Barclay và Dave Fisher lui về Chuck-a-Luck.  Abel Hines cũng nhập bọn.  Dale Gerard rót cho họ một vại nửa lít bia không tính tiền.
“ Có thể Mizell không còn câu hỏi,” Barclay nói, “ Nhưng tôi có một câu.  Dẹp vụ cái mũ qua một bên.  Nếu Trusdale giết con bé thì tại sao không tìm ra đồng đô la bạc?”
“ Bởi sợ nên nó vất đi.”  Hines nói.
“ Tôi không nghĩ vậy.  Thằng đó không đủ trí thông minh làm chuyện đó.  Nếu nó có tiền thì đã ra quán Chuck-a-Luck để uống tiếp.”
“ Nói cái gì vậy?” Dave hỏi.  “ Bộ anh nghĩ nó vô tội hả?”
“ Tao chỉ nói là phải chi kiếm được đồng bạc.”
“ Biết đâu đồng tiền lọt qua cái lỗ trong túi.”
“ Túi nó không có lỗ.  Tao kiểm soát rồi,” Barclay nói.  “ Giầy nó có lỗ nhưng không đủ lớn để  lọt đồng bạc.” Ông uống thêm một ngụm bia.  Những cụm dã thảo bay trên con đường chính trông giống những bộ não ma quái trên tuyết.


Một tiếng rưỡi sau thì bồi thẩm đoàn đã luận tội xong.  “ Bỏ thăm lần đầu là đã đủ treo cổ nó rồi,” Kelton Fisher sau này kể lại,  “ Nhưng chúng tôi muốn cho nó có vẻ đàng hoàng.”
Mizell hỏi Trusdale có điều gì muốn nói trước khi đọc bản án.
“ Chẳng biết nói gì khác,” Trusdale nói.  “ Chỉ có điều là tôi không có giết con bé đó.”
Ba ngày sau thì cơn bão thổi qua.  John House hỏi Barclay Trusdale nặng độ bao nhiêu, và Barclay phỏng đoán độ 140 pounds. House bỏ gạch đá vào một cái bao bố cho đến khi cân nặng đủ 140 pounds rồi treo cổ cái bao bố trong khi một nửa cư dân thành phố đứng nhìn dưới trời tuyết bay lất phất.  
Đêm trước ngày hành hình thì thời tiết bắt đầu trở nên quang đãng.  Cảnh Sát Trưởng Barclay nói Trusdale muốn ăn cái gì cũng được.  Trusdale gọi món bíp tết và trứng với khoai tây chiên thẫm nước sốt.  Barclay bỏ tiền túi ra trả, rồi ngồi bàn giấy cắt móng tay và nghe tiếng dao nĩa lẻng kẻng.  Khi xong thì ông đi vào phòng giam.  Trusdale đang ngồi trên giường.  Cái đĩa sạch đến độ Barclay nghĩ hắn đã phải liếm hết nước sốt như một con chó.  Hắn đang khóc thút thít.
“ Tôi vừa nghĩ ra một chuyện,” Trusdale nói.
“ Chuyện gì vậy Jim?”
“ Nếu họ treo cổ tôi sáng mai thì bíp tết và trứng vẫn còn nằm nguyên trong bao tử, chưa có cơ hội tiêu hóa.
Barclay ngồi nín thinh một hồi lâu.  Ông rùng mình khủng khiếp không phải vì cái hình ảnh mà vì Trusdale đã nghĩ đến nó.  Rồi ông nói.
“ Chùi sạch mũi.”
Trusdale quẹt ngang mũi.
“ Jim, nghe kỹ đây, bởi vì đây là cơ hội cuối cùng.  Mày ngồi trong quán rượu lúc xế chiều thì đâu có mấy người trong đó phải không?”
“ Chắc vậy.”
“ Vậy thì ai lấy mũ mày?  Nhắm mắt lại.  Ráng nhớ lại coi.”
Trusdale nhắm tít mắt lại.  Barclay đợi một cách kiên nhẫn.  Cuối cùng Trusdale mở cặp mắt đỏ ngầu vì khóc.  “ Chịu.  Không nhớ có đội mũ hay không.”
Barclay thở dài.  “ Đưa tao cái đĩa.  Cẩn thận con dao.”
Trusdale đưa cái đĩa với dao nĩa nằm trên qua thanh cửa.  Nói thèm một ly bia.  Barclay suy nghĩ xong khoác áo, đội mũ Stetson và đi bộ sang Chuck-a-Luck để lấy một thùng bia.  Thằng Hines nhà đòn vừa uống xong ly vang, đứng dậy đi theo.
“ Ngày mai sẽ um xùm lắm đây,” Barclay nói.  “ Mười năm rồi chưa có ai bị xử treo và mười năm nữa mới có treo cổ trở lại.  Tới lúc đó thì tao không còn làm nữa.  Phải chi về hưu cho rồi.”
Hines nhìn ông.  “ Anh không nghĩ nó giết con bé?”
“ Nếu nó không phải là người giết,” Barclay nói.  “ Thì thủ phạm vẫn còn nhơn nhởn đâu đây.”


Cuộc hành hình vào lúc 9 giờ sáng ngày hôm sau.  Trời gió lạnh nhưng mọi người đã có mặt để xem.  Mục Sư Ray Rowles đứng cạnh John House trên khán đài.  Dù có mặc áo choàng, quấn khăn, nhưng cả hai vẫn run lập cập vì lạnh.  Barclay dắt Trusdale, tay cùm lại sau lưng, lên khán đài.  Khi bước lên tới bậc thang thì Trusdale bắt đầu khuỵu xuống và òa lên khóc.
“ Tôi van các ngài,” Hắn nói.  “ Tôi xin các ngài.  Đừng giết tôi.”
Tuy hắn nhỏ người nhưng khá khoẻ, và Barclay phải ra hiệu cho Dave Fisher ra phụ.  Cả hai vừa ôm vừa kéo xềnh xệch nó lên 12 bậc thang gỗ.  Khi lên tới giảo hình đài thì Trusdale bắt đầu nín, nhưng khi Mục Sư Rowles bắt đầu đọc Thánh Vịnh 51 thì hắn lại rú lên.  “ Như vú nàng bị kẹp trong máy xay,” có người nói sau ở quán Chuck-a-Luck.
“ Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà thương xót con, “ Rowles bắt đầu đọc to lên để át tiếng tru, tiếng rú của phạm nhân.  “ Xin ngài mở lượng hải hà mà rửa con sạch hết mọi lỗi lầm.”
Khi Trusdale thấy House lấy miếng vải đen trùm đầu từ trong thắt lưng ra thì bắt đầu thở hổn hển như một con chó.  Hắn lắc đầu qua lại để tránh cái mũ.  Tóc hắn bay phất phới trong gió.  
“ Cho tôi nhìn ngọn núi một lần cuối,” Trusdale rống lên.  Hai hàng nước nhớt chảy tòng teng dưới lỗ mũi.  “ Cho tôi nhìn ngọn núi một lần cuối.”
Nhưng House vẫn trùm cái mũ lên đầu Trusdale và kéo xuống tới vai.  Mục Sư Rowles vẫn rề rà đọc tiếp, và Trusdale cố chạy tránh cái cửa sập nhưng Barclay và Fisher đẩy hắn xuống lại.  
“ Nói amen,” Barclay bảo Mục Sư Rowles, “ Làm ơn nói amen nhanh lên.”
“ Amen,” Mục Sư Rowles nói, bước ra sau và đóng cuốn Thánh Kinh kêu cái độp.
Barclay ra hiệu cho House kéo cái đòn cân.  Miếng đà đã thoa mỡ bò rút lại và cánh cửa sập xuống.  Tiếng cổ gẫy nghe rắc rắc.  Hai chân hắn rút lên tới cổ, rồi thả thõng xuống.  Những giọt nước vàng chảy xuống làm ố bẩn một vùng tuyết dưới chân.  
“ Rồi đời mày, thằng khốn nạn.” bố của Rebecca Cline la lớn lên.  “ Chết như một con chó.  Cầu cho mày xuống địa ngục.”  Có tiếng vỗ tay rời rạc.
Đám người dự khán ở lại cho tới khi xác Trusdale, vẫn còn trùm vải đen, được đặt trên cùng một chiếc xe ngựa đã mang hắn vào phố.  Rồi họ giải tán.
Barclay trở về nhà lao và ngồi trong phòng giam Trusdale.  Ông ngồi khoảng 10 phút, hơi thở ra khói. Cuối cùng thì cái ông đợi đã đến.  Ông xách cái xô đựng bia và mửa vào đó.  Rồi ông vào văn phòng chụm lò sưởi.  
8 tiếng sau khi Abel Hines đi vào, ông vẫn còn đó, ngồi đọc sách.  Hines nói, “ Anh phải xuống nhà quàn.  Có cái này tôi muốn anh xem.”
“ Cái gì?”
“ Không nói được.  Phải xem mới được.”
Họ đi bộ tới nhà quàn.  Xác Trusdale nằm trần truồng trên một miếng phản.  Mùi chất hóa học và cứt đái nồng nặc xông lên mũi.  
“ Khi chết như vậy thì người ta ỉa ra quần,” Hines nói.  “  Kể cả những người can đảm, không sợ chết.  Nó là phản ứng tự nhiên.  Cơ vòng mở toang vì phản xạ.”
“ Rồi sao?”
“ Ra đây.  Làm nghề như anh thì xem cứt đái trong quần cũng là bình thường.”
Cái quần lộn ngược ra, để nằm dưới sàn nhà.  Trong đống phân nhớp nhúa có một cái gì óng ánh.  Barclay nhìn gần hơn và thấy đó là một đồng đô la bạc.  Ông thò tay nhặt nó ra.
“ Tôi không tài nào hiểu được,” Hines nói.  “ Thằng chó đẻ đó bị nhốt khá lâu mà.”
Barclay ngồi phệt xuống cái ghế trong góc nhà.  “ Chắc nó nuốt ngay sau khi mình đến bắt nó.  Và mỗi lần ỉa ra thì nó lại lau chùi rồi nuốt lại.”
Hai người ngồi nhìn nhau.
“ Vậy mà anh tin lời nó,”  Hines nói.
“ Thật là dại dột.  Nó một mực đến chết vẫn kêu oan.  Chắc khi đứng trước tòa phán xét của Thiên Chúa vẫn nói vậy.”
“ Chắc vậy.”
“ Tôi vẫn không hiểu.  Trước sau gì thì nó cũng bị treo cổ.  Anh có hiểu không?”
“ Mặt trời mọc mỗi sáng mà tôi còn không hiểu nói chi là.  Thế rồi bây giờ làm gì với cái đồng bạc này? Trả lại cho bố mẹ con bé? Có lẽ không nên, bởi vì…”  Hines nhún vai.


Bởi vì vợ chồng Clines đã biết.  Mọi người trong thành phố đều đã biết.  Ông là người duy nhất không biết.  Thật là dại khờ.
“ Tôi không biết phải làm gì với đồng bạc đó.” ông nói.


Cơn gió mạnh thổi thình lình mang theo tiếng hát.  Tiếng hát từ nhà thờ.  Bài hát phụng vụ tôn vinh Thiên Chúa.