Thursday, July 28, 2016

Andrew Lam


Andrew Lam là tác giả của Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora và East Eats West: Writing in Two Hemispheres.  Cuốn sách mới nhất của anh, Birds of Paradise Lost, đã được xuất bản vào tháng Ba, 2013.  Đây là bài nói chuyện của anh năm 2014 tại một trường trung học nơi mà học sinh đã quyên tiền cho nạn nhân bão lụt tại miền trung Việt Nam.



Tôi băn khoăn không biết nói gì về Việt Nam và những kinh nghiệm mà tất cả chúng ta mang theo.  Cái ràng buộc tôi với Việt Nam vẫn còn phức tạp và là một quan hệ có nhiều mâu thuẫn, mãi chưa giải quyết xong.  Kinh nghiệm Việt Nam của tôi vẫn cứ thay đổi mãi với thời gian.  

Tôi rời Việt Nam khi lên 11 lúc cuộc chiến vừa tàn.  Gia đình chúng tôi sang Mỹ với hai bàn tay trắng và đã phải làm lại từ đầu.  Có giai đoạn chúng tôi đã sống kiếp tha hương túng thiếu, phải ở chung với hai gia đình Việt Nam khác trong một chung cư cuối đường Mission nơi San Francisco giáp ranh với khu lao động của thành phố Daly City.  Chúng tôi cố để vươn lên tới tầng lớp trung lưu.  Có lúc chúng tôi đã ngụp lặn trong những mất mát và ước ao.  

Những vị đủ lớn để nhớ thì biết đấy, Việt Nam không phải là một đề tài dễ-đo-lường, và là một câu truyện khó-có-thể-đóng-khung.  Vấn đề Việt Nam vẫn tiếp tục thay đổi, nhưng là một văn sĩ và một người đến từ mảnh đất ấy, tôi thắc mắc không biết trong tất cả những viết lách có dính đến chữ “Việt Nam", chúng ta có thực sự nói về cùng một quốc gia hay không.

Hãy thử đọc vài đầu đề trong tin tức mấy năm gần đây:

-CNN: Vấn đề A-Phú-Hãn bị ám ảnh bởi bóng ma Việt Nam.

- London Telegraph: Barack Obama phải thôi do dự- kẻo không thì A-Phú-Hãn sẽ là Việt Nam của ông.  

-New York Times:  Một hướng dẫn kiểu chiến tranh Việt Nam cho A-Phụ́-Hãn.

-Baltimore Sun:  A-Phú-Hãn là Việt Nam của Obama.

-Global Post:  Cuộc chiến nào của Mỹ dai dẳng nhất, A-Phú-Hãn hay Việt Nam?

-The Canada Free Press: Việt Nam và tại sao ta mất A-Phú-Hãn  


Thường thì khi nhắc đến từ “Việt Nam" bên Hoa Kỳ, người ta không nói đến Việt Nam như một quốc gia.  Không như Thái Lan hay Mã Lai Á.  Chữ Việt Nam có một tương quan đặc biệt với người Mỹ: nó đã thành một cái nhà kho chất đầy những ám dụ bi thảm- biểu tượng cho sự mất ngây thơ, cho thảm kịch, cho hệ quả của sự thua trận, và cho sự thất bại.   Lần đầu tiên trong lịch sử của chúng ta, người Mỹ đã bị sa lầy trong quá khứ, đã bị ám ảnh bởi những câu hỏi không có câu trả lời, và đã phải đối diện với một kết cục bi thảm.

Đến độ mà chú tôi, một phi công trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có lần nhận định, “ Khi người Mỹ nói về Việt Nam thực ra họ đang nói về chính nước Mỹ.  “ Người Mỹ không quen thua trận và dĩ vãng không được đẹp,”  chú nói thêm.  “ Họ cố trốn chạy,” chú nói kiểu khôi hài chua chát của chú, “ Họ có thói quen đổ lỗi những nước nhỏ cho những gì xảy ra cho Hoa Kỳ.  AIDS đến từ Haiti, cúm từ Hồng Kông hay Mexico, ma túy từ Columbia, bão từ Caribbean. “

Rồi còn cha tôi, một người chỉ nói chuyện Việt Nam thời chiến sau khi đã uống vài ly.  Khi say cụ nhớ lại thời còn làm lớn, thời còn là chiến sĩ đánh giặc và thắng trận, cái thời của khí phách và hứa hẹn.  Nhưng cụ không thể nói về cái kết cục, về sự thua cuộc và nỗi tủi nhục và những mất mát thê thảm.  Về những đồng đội và người em ruột phải đi cải tạo.  Về những người lính đã để lại khi cụ trốn chạy.  

Tôi đã trở lại Việt Nam nhiều lần.  Và lần nào tôi cũng cố đặt Việt Nam vào một góc nhìn nào đó.

Và khi tôi thoát ra khỏi quan điểm của cha tôi, ra khỏi bóng của người, tôi nhận ra là có nhiều cách nhìn về cái quê hương ấy.  

Chẳng hạn như vài năm trước đây khi tôi về Việt Nam để cùng làm một cuốn phim tài liệu PBS tên là Chuyến Về Nhà của Tôi và tôi đã làm một cái trò rất ư là du khách: Tôi đã đến đường hầm Củ Chi ở Tây Ninh, cạnh Cam Bốt, một hệ thống những đường hầm chằng chịt như mê lộ nơi Việt Cộng đã ẩn trú trong một cuộc chiến cách đây nhiều năm.

Hôm đó cũng có nhiều cựu quân nhân Mỹ ở cái tuổi sấp xỉ thất tuần--họ đã chiến đấu và có nhiều mất mát ở Việt Nam.  Đây là lần đầu tiên họ trở lại.  Họ cảm động lắm.  Vài anh đã khóc hu hu khi chui ra khỏi chỗ thăm viếng ấy.  Một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam đã nức nở nói rằng trong cuộc chiến ông đã “ bỏ nhiều thời gian tìm kiếm chốn này như những đồng đội đã ngã gục đã từng làm.”

Thế nhưng cô hướng dẫn viên du lịch trẻ tuổi người Việt, sanh ra sau khi cuộc chiến đã chấm dứt, đã không thấy quá khứ:  Cô chỉ mơ về một tương lai toàn cầu.  Cô bảo tôi vì kỹ nghệ du lịch nên người Việt mới phải đào xới những sào huyệt ngày xưa lên.  Rồi cô nói nhỏ: “ Hồi xưa nó nhỏ hơn nhiều.  Nhưng bây giờ thì đường hầm Củ Chi đã được làm rộng ra.  Biết tại sao không?  Để những người Mỹ mập ù có thể chui lọt.”

Cô thường phải chui trong cùng đường hầm với những người ngoại quốc, nhưng khi chui ra thì cô lại có ý tưởng khác.  Trong đầu cô có đầy hình ảnh của Cầu Vàng và xe cáp và xa lộ hai tầng và Hollywood và phim trường Universal Studios.  “ Giờ tôi có nhiều bạn bè bên đó lắm,” cô nói mà đôi mắt mơ màng với ước vọng chung của tuổi trẻ Việt Nam.  “ Họ mời tôi sang.  Tôi đang để dành tiền cho chuyến đi hoành tráng này.”  Nếu có thể, cô nói, cô sẽ sang Mỹ học.  

Và thế là tôi đứng ở miệng hầm mà suy nghĩ rằng, cuối cùng  thì có lẽ cuộc chiến này sẽ không bao giờ có một kết cục.

Người miền bắc xem đấy là một cuộc chiến mà họ giải phóng miền nam khỏi tay đế quốc Mỹ.  Những người Việt lưu vong chúng tôi thì khắc cốt ghi tâm ngày mất nước.  Không thiếu gì truyện thuyền nhân người Việt đã bỏ xứ ra đi để thoát khỏi ách kềm kẹp.   Hàng chục ngàn người khác bị gửi đi những trại cải tạo.  Còn có truyện những thanh niên chạy giặc ở Cam Bốt nơi mà người Việt là đoàn quân đế quốc xâm lược.  Và dĩ nhiên, truyện của những người cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam trở về để nhìn lại mất mát và để làm hòa với quá khứ.

Đây là một thiếu nữ sanh ra sau khi cuộc chiến đã tàn, khi nhìn vào đường hầm trước đây là tổng hành dinh của Việt Cộng thì nàng đã thấy gì? Magic Kingdom.  Đương nhiên có những người được đường hầm Củ Chi đưa trở lại quá khứ, nhưng với cô hướng dẫn viên du lịch trẻ tuổi này thì nó có thể sẽ mang lại tương lai.  Việt Nam quả tình là một quốc gia nhiều người trẻ và đã tăng  gấp đôi kể từ khi cuộc chiến đã chấm dứt, bây giờ con số lên tới hơn 95 triệu.  
“ Giờ tôi có nhiều bạn bè bên đó lắm,” cô nói mà đôi mắt mơ màng với ước vọng chung của tuổi trẻ Việt Nam.
“ Họ mời tôi sang.  Tôi đang để dành tiền cho chuyến đi hoành tráng này.”

Nói một cách khác, chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến nhiều góc cạnh và còn phức tạp hơn nữa vì quá nhiều quan điểm.  Do đó khi nói về Việt Nam ta chẳng nên giản dị hóa mà hãy giang rộng vòng tay để nó trở thành câu truyện dân gian, của con người, thay vì là một thứ ẩn dụ cho bi kịch.


**


Riêng tôi, sau nhiều năm tháng thì tôi đã làm hòa với nó.  Sau một thời gian lâu tôi mới nhận thức được là, đối với những người mà cuộc đời đã bị đảo lộn bởi giòng lịch sử, thì cá nhân đối với lịch sử cũng như sông ngòi đối với biển cả.  Câu đố của James Baldwin thực ra chỉ là câu hỏi cho có chuyện khi ông đặt ra trong một thiên tiểu luận, “ Mấy ai đã chế ngự được quá khứ của mình?” và ông đã tự trả lời: “ Người ta mắc bẫy trong lịch sử và lịch sử mắc kẹt trong người ta.”  Nhưng xin lỗi, ta có thể tiếp lời đánh giá hơi ác nghiệt của Baldwin với lời khuyên sắc bén của N.Scott Momaday: “ Còn kể lại được thì còn có thể chịu đựng được.”

Cái phản ứng trưởng thành hơn đối với thảm kịch của chính mình không phải là sự thù ghét hay oán giận mà là lòng kiên trì để cố gắng vượt qua những giới hạn của cuộc đời.  Lịch sử quả có mắc kẹt không lối thoát trong tôi thật, nhưng chính tôi phải là người tự giải quyết nó, phải truyền bá nó, phải biện biệt, trưng dụng, và cuối cùng biến nó thành một sự tự diễn có nghệ thuật.  Và bởi thế nên tôi viết.  Và tôi viết.  Và viết,  

Và qua những câu truyện về Việt Nam, khi nhìn vào những nhu cầu và vấn đề hiện tại, và khi cố đóng góp vài nhận định, mà tôi đã tìm thấy đường về.

Và không chỉ mình tôi đâu.

**

Một người bạn trẻ người Mỹ gốc Việt của tôi ở Los Angeles có người chị bị giết bởi hải tặc Thái trên đường tị nạn, cô mới trở lại Sài Gòn, và giờ này đã là một doanh nhân thành công.  Một người khác, cha là đại tá từng bị cải tạo 14 năm, đã đi hưởng tuần trăng mật ở Việt Nam mặc dù ghét cay ghét đắng chế độ Hà Nội.  Lại một người khác, cha bị biệt giam nhiều năm dưới chế độ Cộng sản, rồi một ngày anh ta trở về, viết một cuốn sách và giờ làm chủ một quán bar đông khách ở Hà Nội.  

Người em họ của tôi, gia đình mất hết của cải phải chạy sang Pháp, đã trở lại lập gia đình ở Việt Nam và mở tiệm bán rượu vang Pháp.  Chú đã thành công ngay ở nơi mà cha chú trước đây đã bị giam cầm trong trại tập trung đầy muỗi mòng sốt rét.  Đó có lẽ cũng là một hình thức báo thù hay nhất.

Một người bạn khác đi thêm một bước xa hơn: cuối thập niên 70, chị và gia đình phải trốn bằng thuyền, nhưng chị đã trở lại, mang theo tiền quyên góp được ở Silicon Valley để thiết lập chương trình nhằm giúp đỡ những gia đình nghèo khó ở vùng đồng bằng sông Cửu Long để họ khỏi phải bán con cho lũ buôn bán phụ nữ, trẻ con.  

Tuy thua trận chiến nhưng những người này đã trở thành kẻ thắng hòa bình.

Họ đã làm lại cuộc đời, và, quan trọng hơn cả, đã không để lòng thù hận và phẫn nộ chế ngự tâm hồn, và có người còn trở thành những tác nhân tích cực trong công cuộc thay đổi đất nước Việt Nam.

Cuối cùng thì chỉ có những cuộc đời sống cho mỗi ngày mới có ý nghĩa, chỉ khi ta cố hết sức mình để gây ảnh hưởng và tạo một tương lai tươi sáng hơn cho con người, mới có ý nghĩa.  Chỉ có khi ta giải quyết những nhu cầu và khổ đau của người sống thì bóng ma của quá khứ mới được an ủi.  Và chỉ khi nhìn về Việt Nam không bằng cặp mắt nhuộm đầy thù hận lịch sử, mà bằng con mắt của tình người, thì đất nước mới được rộng mở.

Hồi xưa tôi có nghe đức Đại La Lạt Ma nói thế này với một cử tọa người Mỹ:

“ Muốn người khác được hạnh phúc, phải có trắc ẩn chi tâm.  Nếu chính mình hạnh phúc, phải có lòng trắc ẩn.”  

Tôi biết, nói thì dễ, làm mới khó.  Có lúc trong lòng tôi bừng cháy một nỗi u sầu và phẫn nộ tưởng như chẳng có gì có thể dập tắt được.

“ Muốn người khác được hạnh phúc, phải có trắc ẩn chi tâm.  Nếu chính mình hạnh phúc, phải có lòng trắc ẩn.”

Có nghĩa là nếu muốn nhìn Việt Nam, hay bất cứ quốc gia nào, vượt ra khỏi chính trị địa dư của nó, vượt ra khỏi quan hệ lịch sử với Hoa kỳ, thì ta phải mở rộng lòng ra .  Nếu muốn thấy tự do, thì ta phải tôn trọng nhân phẩm.  Và nếu muốn tìm thấy an bình, thì ta phải tha thứ kẻ khác, và quan trọng không kém, phải tha thứ chính mình.

Đó là cái mà tôi, dù cho có buồn và mang nặng kỷ niệm, vẫn cố tìm tới.  Và khi đối diện với nỗi đau con người, tôi hy vọng tất cả chúng ta đều cố vươn lên.






























Monday, July 25, 2016

Thằng Du Đãng Cả Nhà Đang Tìm

Thằng Du Đãng Cả Nhà Đang Tìm
The Gangster We Are All Looking For

Lê Thị Diễm Thúy



Việt Nam là tấm ảnh đen trắng ông bà ngoại ngồi ghế mây sân trước.  Hai cụ ngồi thẳng lưng và kiêu hãnh giữa một đàn gà, trống có mái có.  Chân các cụ chỉ đi có đôi dép mỏng.  Trán cụ ông bóng lưỡng.  Mắt cụ bà u uẩn long lanh.  Đàn gà tiếp tục mổ đất, chẳng thèm để ý đến chung quanh.  Mới nhìn tưởng như tấm ảnh cưới, nhưng thực ra là ảnh hai cụ chụp sau này, để lại cho con cháu, đặc biệt là cho mẹ tôi.  Mỗi lần nghĩ đến bức ảnh để đời của ông bà ngoại là tôi hình dung ra một cái bắt đầu.  Bắt đầu cái gì và ở đâu thì không biết.  Chỉ biết là bắt đầu.


Khi mẹ tôi, một cô nữ sinh công giáo Nam kỳ, quyết định lấy cha tôi, một anh du đãng Bắc kỳ, thì ông bà ngoại từ mẹ tôi.  Trong ảnh có hết, chỉ có không thấy thôi.  Có một vết lún còn để lại dấu trên sân đất dẻo quẹo khi ông ngoại vác chổi chà rượt đuổi mẹ tôi ra khỏi nhà.  Cái chổi mà mẹ tôi mỗi ngày dùng để quét nhà mỗi sáng, kể cả cái hôm bị đuổi.


Năm mẹ tôi gặp cha tôi, trong nhà không thiếu gì những thanh niên chạy việc vặt cho ông ngoại tôi, lặt rau cho bà ngoại tôi.  Ai cũng biết họ đeo đuổi mẹ tôi, trừ mẹ tôi.
Mẹ tôi xem họ như anh, có khi như chú, và sau này tự bào chữa, “  Hồi đó tui đâu có biết yêu đương là cái khỉ mốc gì.”

Mẹ nói tình yêu bắt đầu trong bóng tối của một rạp hát.  Mẹ không nhớ phim nào, tại sao đi xem, mẹ chỉ nhớ hôm ấy đi coi một mình và tình cờ ngồi cạnh cha tôi.  Trong bóng tối mẹ không thấy rõ mặt nhưng chỉ biết là đẹp trai.  Không biết chả có biết mình đang nhìn lén không.  Nhìn lén nhưng không mắc cở ngượng ngùng.  Nhìn với một tò mò kỳ quặc, nhìn mà muốn lấy ngón tay đồ lại bóng hình cho tới khi thuộc lòng từng nét một và có thể nhớ lại mỗi khi đi qua chỗ tối.   Sau này, dưới cái bóng của con thuyền đánh cá trên bãi cát trong một đêm tối đen như mực, mẹ tôi cố hình dung lại khuôn mặt ấy để làm bạn đường ấm áp trên bờ biển.


Thời còn bồ bịch mẹ tôi hay kể truyện.  Mẹ thuật lại những giấc mơ chi tiết về một ngày không còn chiến tranh: những mâm cỗ có trái xoài xếp cao chất ngất. Những khúc ca bịa ra mà hát và vỗ đầu hất tóc như bờm ngựa, những vũ điệu nhảy cà tưng, chân nam đá chân chiêu.  Khi ở nhà thì mẹ tôi là đứa con ngoan ngoãn, người chị dễ thương, khi ở trong rừng với cha tôi thì mẹ tôi liều lĩnh, say sưa với tình yêu và tuổi trẻ.  Mẹ tôi xắn quần lên tận đầu gối, lội bì bõm trong vũng bùn và miệng thì phì phèo điếu thuốc lá. Và mẹ tôi bắt đầu lơ là công việc nhà.

Mẹ tôi cột tóc bằng miếng vải đỏ và trở nên cáu kỉnh.  Mẹ làm việc nhà như đang thi ân mà quên đi mình cũng ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu với cả nhà.  Nhìn thấy mặt mình phản chiếu trong giếng mà mẹ tưởng như mặt của ai khác.  Đêm nằm mẹ nhớ lại bàn tay của cha và lối bật lửa châm thuốc cho mẹ.  Mẹ suy nghĩ không biết ngôi rừng trông như thế nào khi cây cối chưa khô cằn.  Mẹ nhớ có lần cha tả về những cành lá um tùm và cây cối sum suê đâm chồi từ mảnh đất màu mỡ.  
Một buổi tối, mẹ theo cha đi lòng vòng trong rừng để tìm con đường mòn dẫn về nhà bà cô của cha.  Họ đi lang thang trong bóng râm mà không hề thấy con đường mòn hay bà dì mà mẹ biết không hề hiện hữu.

“ Anh không phải người vùng này,” mẹ nói.
“ Đúng thế.”
“ Thế dì anh tên gì?”
“ Xuân.”
“ Xuân?”
“ Phải.”
Mẹ cười thành tiếng.  Mẹ nghĩ, mình không thể ở đây mãi được.
“ Cha tui giờ chắc đi tìm--”
“ Anh sẽ đưa em về.  Còn sớm mà.”

Trong bóng tối, mẹ cảm thấy được bàn tay cha chìa ra, lấp đầy khoảng cách giữa hai người.  Cả buổi tối họ chưa chạm người nhau và giờ thì cha đưa tay ra cho mẹ.  Mẹ đứng nhìn cha một hồi lâu.  Cằm ông có một vết sẹo nhỏ, cong như móng tay của mẹ.  Tối quá sao mà thấy được.  Mẹ chợt hiểu là mình đã thuộc lòng khuôn mặt của chàng.  


Hình ảnh đầu tiên tôi nhớ được của khuôn mặt cha tôi được đóng khung bởi vòng rào kẽm gai của một trại giam ở miền Nam.  Mẹ đứng bên kia hàng rào, thì thầm tên cha như vuốt ve, như nựng nịu.  “ Anh Minh, anh Minh.”  Tên ông là thân cây cho mẹ tựa vào.  Tiếng gọi bay phảng phất như một ngọn gió ấm thổi hiu hiu, và tên mẹ thốt lên như một câu tám để vận với câu sáu có mang tên cha.  Mẹ thốt tên mình như ta thả một hòn sỏi vào lòng giếng.  Mẹ muốn được ôm trọn trong vòng tay của cha.  “ Anh Minh, em My, anh Minh.  Em, em My.”

Mẹ bước qua hàng rào kẽm gai như người ta bước qua cửa sổ.  Người mẹ ấm áp, một lớp mồ hôi thoang thoảng trên cánh tay trần.  Mẹ nói, “ Em đây, em đây.”  Có một chút e lệ, kiểu cách, và hổn hển như mới gặp lần đầu.  Cha mẹ tôi bao giờ cũng vậy.  Lúc nào cũng như gặp lần đầu, lúc nào cũng thưởng thức tính nhạc của tên gọi và mân mê xương xẩu của nhau.

Tôi lẽo đẽo theo sau như cái đuôi rồng rắn, như cái đuôi con diều.  Tôi bay phất phới trên không trung, nối liền với cha mẹ bằng mảnh lụa dệt tơ tầm.  


Chỉ vì một vốc sỏi và cái khuôn mặt vuông thành sắc cạnh của cha tôi mà mẹ tôi đã bỏ nhà ra đi và không bao giờ trở lại.  Cái vẻ dửng dưng của cha khi ném những viên sỏi vào mẹ khi bà trên đường đi học về với bạn gái.  Cha làm vậy vì thích mẹ và muốn cho mẹ biết.  Con trai ngu vậy đó, mẹ bảo tôi.  Một vốc sỏi, ném khi giận dữ, trong cơn tuyệt vọng, và những lúc hân hoan.  Mẹ nói chúng chạm người mẹ như những nụ hôn nồng ấm, những viên sỏi mà cha cầm dưới ánh nắng mặt trời.  Những nụ hôn ấm trên phần cong của lưng, chạy tuột xuống khuỷu tay, mơn trớn cái mắt cá và rớt vung vãi chung quanh bàn chân trong cát nóng.  


Điều cha kể cho mẹ nghe chắc là bịa đặt.  Ở miền Nam đâu có ai để kiểm chứng những chi tiết của cuộc đời ông.  Cha nói cha xuất thân từ một gia đình thuộc loại danh gia vọng tộc miền Bắc.  Cha cởi giầy cho mẹ coi bàn chân có ngón thứ hai dài hơn các ngón khác.  “ Nội cái này thôi đủ thấy là con nhà dòng dõi rồi.”   Mũi anh cao, cha nói, vì mẹ là Tây, một trong một lô những bà nhân tình của bố anh.  Khi khám phá ra năm mười sáu tuổi thì cha bỏ nhà vào Nam.

“ Có những quân cờ bạc, rượu chè mà anh gặp đã làm anh nghĩ đến gia đình anh.  Cái lối họ mơ mộng.  Nhà anh toàn là hạng nằm nhìn trời mà mơ mộng viễn vông, để rồi say sặc với chính giấc mơ của mình.” Cha nói trong khi lưng dựa thân cây, tay khoanh trước ngực, mắt nhìn xuống đất, bờ vai rám nắng.

Mẹ hỏi bà ngoại, “ ngón chân thứ hai dài hơn mấy ngón kia có nghĩa là gì?”
“ Là---mẹ mày chết trước cha mày,” bà ngoại nói.
“ Sao nghe người ta nói đó là dấu chỉ của người quyền quý.”
“ Ồi! Ai biết quyền quý là cái giống gì?”


Ngón chân cha tôi làm mẹ tôi bị mê hoặc.  Khi nhìn bàn chân của ông, mẹ thấy mười cái thuyền đánh cá, hai đội mỗi đội năm chiếc.  Trong mỗi đội, chiếc thuyền thứ hai nhô ra phía trước, dẫn đầu cả đội.   Mẹ trèo lên cây, ngón chân bám lấy cành, và nhìn xuống chân cha.  Mẹ bắt cha đứng dưới bùn, rồi tưởng tượng mười chiếc thuyền đánh cá trong vùng nước đen, một đoàn tầu hải hành trong đêm.
Mẹ tựa người ngắm nhìn mà không hề giải thích ông biết mình thấy gì.  Mẹ để mặc ông đứng đó thắc mắc, tay cầm điếu thuốc, nhìn vào mắt cá chân run rẩy của mẹ , khi nào mẹ cho phép mới dám động đậy.  

Tôi sanh ra trong con hẻm sau nhà ông bà ngoại.  Ba giờ sáng, mẹ tôi lết ra khỏi chiếc giường trong căn nhà nhỏ cha mẹ ở kể từ ngày lấy nhau.  
Cha đang ở tù nên mẹ đi một mình.  Mẹ đi xiêu vẹo trên bãi cát.  Như một quả banh nhấp nhô trên sóng, mẹ đi bềnh bồng không định hướng.  Mẹ đi bộ ra trường học, ngồi trên cát, tựa lưng vào bậc thềm.  Mẹ cảm thấy những hạt cát ấn sâu vào lưng.  Mỗi hạt là một vết kim đâm mỗi lúc một đau hơn.  Mẹ cảm thấy như lưng mình sắp vỡ òa ra máu.  Mẹ nghĩ, mình sắp xuất huyết cho đến chết.  Mình sắp chết đây.
Trước sân trường học có một ống sắt dài.  Chẳng ai biết từ đâu ra.  Trước giờ đã có sẵn ở đó rồi.  Trẻ con bò trong đó chơi trò trốn tìm hay đứng đầu này nói vọng qua đầu kia, hay chui trong đó để mà chia sẻ những chuyện thầm kín.  Bởi vì giờ nghỉ chẳng có trò gì khác để chơi nên ống sắt này là tất cả.  Một tấm bạt được căng bên trên để che nắng.  Ống sắt trông giống như một khúc gỗ cháy đen trong một căn phòng không vách.  Lũ trẻ ngồi thành hàng trên ống, đầu ngúc nga ngúc ngắc khi nói chuyện, trông giống như ngồi dưới một cái bè có mái che.

Đêm tôi sanh, mẹ tôi nhìn cái ống mà tưởng tượng ra một cánh tay bị phỏng nặng của một người khổng lồ, mình đang chôn vùi trong cát.  Mẹ không chắc hắn đã bị chôn sẵn trong cát và đang cố chui ra, hay hắn đang cố vùi người trong cát chỉ còn lại cánh tay chưa kịp kéo xuống.  Để làm gì? Mẹ tôi có nghe kể chuyện về một cô con gái bên tỉnh lân cận bị chết vì bom napalm.  Tối hôm ấy trời nóng nực nên nàng ra biển để nhúng chân xuống nước.  Người ta kiếm ra xác nàng nổi lền bềnh trên biển.  Chất lân tinh trong bom napalm làm xác nàng sáng đỏ rực rỡ như chiếc đèn lồng.  Trong đầu, mẹ tôi dựng một tấm lều để che cho nàng.  Khi nghĩ đến người khổng lồ chôn dưới cát, đến người con gái trôi trên biển, những cái xác đang trên đường đến đâu thì bị ngăn lại, mẹ tôi bỗng òa lên khóc.

Mẹ tôi bắt đầu đi về hướng cái ống.  Bỗng dưng mẹ muốn chui vào đó.  Mẹ chỉ có một thân một mình mà thế giới thì đầy rẫy nguy hiểm.  Khi tới miệng ống, mẹ cúi xuống nhưng ngăn lại.  Mẹ sang đầu kia nhưng cũng vậy, cái bụng không cho.  “ Tui nhớ,” mẹ nói lầm bầm ra miệng,
“ Hồi còn bé tui hay ra đây ngủ mà.”  Bây giờ mẹ muốn vậy.  Mẹ muốn chui vào đây ngủ.

“ Ở đâu mà có cái mũi lõ---”
“ Ở đây làm gì có.”
“ Không có mũi lõ.”

Những con mắt tò mò, hết nhìn mũi mẹ đến nhìn mũi con.  Những cái miệng hít hơi vào, trề ra với vẻ khinh bỉ, rồi nhổ nước bọt xuống chân lúc mẹ đi ngang qua.  Vác tôi ngang hông như một cái cành mới mọc làm thân cây cong oằn xuống, nhưng mẹ vẫn hiên ngang đi tới.  

Mẹ nói chiến tranh là con chim gẫy cánh bay trên vùng trời miền quê, máu chảy thành giòng và tưới những giọt sầu trên cánh đồng hoa mầu.  Cái mọc được, nửa tai ương nửa phép lạ.  Khi tôi ra đời, mỗi lần tôi khóc là mẹ tôi khóc vì biết rằng tôi đã hít thở không khí chiến tranh mà mẹ không tài nào có thể lấy ra được.  Mẹ nói hít vào nguy hiểm dù vẫn biết không thở không được.  Mẹ nói đáng lý phải quật tôi vào tường cho đến khi hộc cái chiến tranh này ra.  Đáng lý phải dày xéo nó trong bóng tối và nhẩy múa trên người nó như một mụ điên nhẩy múa trên bia mộ.  Đáng lý phải giã tan nó thành bột rồi nhổ nước bọt lên nó, nhưng không biết sao? Chiến tranh không có bắt đầu và không có chấm dứt.  Nó vượt đại dương như một con thuyền mong manh ọp ẹp chất đầy những con người đang hát khúc bi ca.



Sáng sáng Ánh thức dậy trong căn nhà kế bên, một căn duplex màu vàng mà chúng tôi gọi là townhouse vì thấy trong quảng cáo địa ốc nói townhouse là một căn hộ có lầu.  Cha tôi gọi Ánh là ”con bé trứng gà.”  Mỗi sáng mẹ Ánh chất một xe cút kít trứng gà đầy để Ánh đẩy ra Linda Vista bán.  Sân sau nhà nó gà chạy lền khên.  Thỉnh thoảng lại thấy một anh gà trống bay đậu lên cổng sau và gáy inh ỏi cả ngày cho đến khi trời tối.  

Chúng tôi sống tại nước California, phủ San Diego, huyện Linda Vista.  Chúng tôi ở trong khu chung cư ngày xưa của Hải quân, những căn nhà chệt xây thời ‘40 và ‘50.  Kể từ thập niên ‘80 đây là nơi cho người tị nạn Việt Nam, Cam Bốt, và Lào.  Khi dọn vào chúng tôi phải ký giấy hứa không ấn xương cá xuống máy xay thức ăn thừa.

Chúng tôi sống trong một dãy nhà màu vàng  trên đường Westinghouse.  Nhà chúng tôi một tầng, làm bằng gỗ và vôi.  Chúng tôi ở sát vách sáu căn nhà hai tầng và một căn một tầng khác đầu bên kia.  Đối diện chúng tôi, chia cách bởi một cánh đồng đất nâu, là một dãy nhà màu vàng in hệt như một cặp song sinh thảm hại.  Linda Vista có đầy nhà kiểu như vậy với những lớp sơn bắt đầu tróc vỏ màu xanh ô-liu, xanh dương, và vàng khè.

Trên đường Linda Vista có một khu nhà mới dành cho Hải quân. Chúng tôi thấy người ta tưới cỏ, trẻ con đạp những chiếc xe đạp ba bánh màu hồng chạy vòng vòng trong xóm.  Chúng tôi thấy họ đi chợ Victory, mua thực phẩm bằng tiền mặt.  Họ tổ chức picnic ở công viên Kelley và bắn nhau bằng súng nước.  Trong trường tụi nhóc được bầu là Có Nhiều Người Thích Nhất, Đẹp Nhất, hay Có Cơ Hội Thành Công Nhất.  Và mặc dù lũ con nít Việt Nam, Cam Bốt, và Lào đông hơn, nhưng chẳng được bầu là cái gì Nhất trong kỷ yếu.  Tụi nó gọi tất cả chúng tôi là Yang vì có năm có một đám trẻ người Lào đều có tên Yang học ở trường.  Lũ nhóc khu Hải quân bắt đầu gọi tất cả những đứa tị nạn là Yang.
Yang.  Yang.  Yang.


Mẹ nói sống cạnh gia đình Ánh làm mẹ nhớ Việt Nam vì tấm bạt màu xanh căng che sân sau là màu xanh của Biển Đông.  Mẹ nói tức cười ở chỗ bầu trời và biển cả cũng theo mình sang đây như đi du lịch chứ không chỉ đi theo con tầu vượt đại dương.  Mẹ nói cả con Ánh cũng làm mẹ nhớ Việt Nam vì cái lối nó ra chợ bán hàng mỗi sáng.

Đùng một cái, bố trở thành ông làm vườn.  Bố mua một xe truck đầy đồ và một hộp danh thiếp của chú Mười Hai vì chú đang định bỏ sang Texas làm nghề đánh cá.  Tấm danh thiếp in hàng chữ
“ Tom’s Professional Gardening Service” và chạm hình một người đang đẩy máy cắt cỏ.  Hình chỉ thấy lưng nên ai mà biết không phải là bố.  Bố cho tôi làm thư ký vì tôi nói tiếng Anh giỏi nhất nhà.  Ai có gọi sẽ nghe tiếng tôi nói: “ Đây là dịch vụ làm vườn của ông Tom.  Xin quí vị để lại lời nhắn, chúng tôi sẽ gọi lại ngay.  Cám ơn.”

Nơi chúng tôi ở nóng nực và bụi bậm.  Có người nghĩ là dơ dáy, nhưng họ biết cái quái gì.  Họ chưa thấy luống vườn trồng xả, bạc hà, ngò, và húng quế.  Họ chỉ thấy bồ câu mổ cơm thừa và mấy con chó mèo gầy ốm ngồi dưới bóng cây khi họ lái xe ngang qua.  Họ đã thấy những trái dâu chúng tôi nhặt, tay chân mồm miệng đỏ loét chưa? Còn cái cầu thang nhỏ bố tôi bắc từ cửa sổ phòng ngủ tôi ra sân sau để tôi có thể đi tắt ra phơi quần áo? Lại còn bức Vạn lý trường thành ngoằn ngoèo như một dòng sông chảy từ đỉnh đồi đường Crandall street xuống tới vùng trũng cong cong? Có ai thấy chưa?

Khu Green apartment thì khác hẳn.  Chúng tôi phải đóng cổng mỗi khi đi vào.  Cái cổng kêu kẽo kẹt làm tôi tưởng tượng bao nhiêu cặp mắt trên lầu, dưới nhà, nhìn chằm chằm sau những tấm màn he hé mở.  Có bốn cây cọ trồng bốn góc sân và một cầu thang chính, trên hẹp dưới rộng.  Những bực thang phủ bằng cỏ giả, như trong một phim Hollywood xưa, loại phim đóng bởi một người đẹp đã quá thì, bừng con mắt dậy thấy mình đi ô-tô bương.

Chúng tôi dọn ra khỏi Green apartment sau khi bật tivi và biết được ông manager và em trai đã chặt một người đàn bà thành nhiều mảnh rồi vất xuống Thái bình dương trong một túi rác mười gallon.  Mẹ nói không muốn sống ở một chỗ có ma nên chúng tôi dọn sang Linda Vista, nơi mẹ nói có nhiều người Việt như chúng tôi, những người chỉ có tội thích bài bạc và mút cương cá và cười nói ầm ĩ.

Mẹ cạo trọc đầu ở Linda Vista vì giận bố đánh bạc hết tiền và say sưa mỗi tuần khi coi đá banh ngày thứ hai.  Bố cho mẹ cái mũ baseball để đội cho đến khi tóc mọc lại, và mẹ đội ngược lại, như một tay anh chị.
Sau đó có người ở Linda Vista nói là mẹ khùng và bố có điên mới ở với mẹ.  Nhưng họ biết gì mà nói?

Khi nhận được tấm hình, bố mẹ cãi nhau.  Bố lăng cái hồ cá ra trước cửa và mẹ đập bể hết chén dĩa.  Bố mẹ nói đáng lý chẳng nên lấy nhau.  
Em của mẹ gởi hình từ Việt Nam trong một phong bì cứng.  Ngoài hình ra chẳng có gì khác, như thể có nói cũng bằng thừa.  Mẹ bắt đầu thổn thức.  “ Con ơi là con,” mẹ nức nở, nói đi nói lại.  Con đây không phải là tôi.  Mẹ muốn nói về chính mình.  
Bố nói, “ Đừng có khóc nữa.  Ông bà già tha thứ em rồi.”
Mẹ vẫn tiếp tục khóc và nói bố lấy cái bàn tay du đãng ra.  Bố nắm tay đấm vào tường.
“ Tay nào? Tay nào?” bố thét lên.  “ Du đãng nào, bàn tay nào.”  Tôi thấy bố tay đấm tay đấm tay đấm tay, đấm máu.

Mẹ đang ở trong bếp.  Mẹ xé toang tấm cửa lưới và ném ly tách dĩa chén ra lề đường như những con chim tung cánh lên trời mà không biết bay đi đâu.  Đến khi rớt xuống đất thì vỡ tan thành từng mảnh vụn.  

Tôi đứng trong hành lang mà nuốt hơi ừng ực.  Tôi hít vào những đổ vỡ tan tành và máu me.  Khi bố thọc tay vào hồ cá, tôi ngửi thoáng được mùi máu trong nước.  Khi bố liệng cái hồ cá ra ngoài cửa và nói, “ Này du đãng này” thì tôi đã nốc cạn nước hồ và nuốt trửng những con cá vàng đầy màu sắc trước khi chúng rớt xuống đất, mình dính đầy đất cho tới khi chỉ còn lòng trắng mắt chớp chớp trong nắng.  
Bố leo lên xe truck, lái đi thẳng.
Khi tôi lớn lên tôi sẽ thành thằng du đãng cả nhà đang tìm.

Lũ trẻ hàng xóm tụ tập trước cửa nhìn qua cửa sổ nhà tôi.  Cả Ánh, con bé bán trứng gà.  Chắc mẹ chúng gởi sang thám thính.  Tôi chạy ra trước múa may quay cuồng như con mụ điên, nhảy cà tưng như con cá lóc.  Chúng cười một hồi rồi im họng lại.  
“ Tụi mày nhìn cái gì?” tôi hỏi chúng.
“ Nhìn mày chứ nhìn ai,” một thằng cười khúc khích.
Tôi tay chống nạnh, đầu ngoẹo sang một bên, trừng mắt nhìn nó như một viên đạn rồi quay đít đi thẳng vào nhà.

Mẹ đang ngồi khuông cửa chân đu đưa ra ngoài đường.  Mẹ nói, “ Để mẹ nhấc con lên gác xép. “
“ Làm chi?”
“ Phải dọn ông bà vào.”
Tôi chẳng hiểu mẹ nói gì nhưng vẫn gật đầu như thường.

Trước giờ chúng tôi không xài tới gác xép bao giờ và cũng chẳng bao giờ leo lên đó.  Khi dọn ông bà vào, mẹ chỉ việc kênh tôi lên và tôi một tay đẩy cửa gác, một tay đẩy cái phong bì cứng đựng hình ông bà ngoại tôi vào tận trong cùng.  Mẹ nói đủ rồi, ông bà đã về đây ở với mình, nhiều lúc chẳng cần phải thấy, chẳng cần phải ôm cũng biết có ở đây.  

Bố về nhà say khướt, sang mượn cái chăn của tôi.  Tôi nghe tiếng bố trèo lên cái cây sau nhà.  Bố đóng những miếng gỗ làm bậc thang trèo lên cây để tôi có chỗ trốn khi chơi năm mười.  Bố đạp trượt bậc thang nên mãi mới leo lên tới nơi.  

Khi leo lên tới mái nhà, bố nằm ngay trên nóc phòng tôi.  Tôi nghe tiếng bố lăn qua lăn lại, miệng khóc hu hu.  Tôi sợ bố té xuống đất chết nên chạy sang đánh thức mẹ.

Mẹ vẫn chưa ngủ, nói thây kệ, chết đáng đời.  Nhưng một lát sau tôi nghe tiếng người trèo cây và cả đêm hai người lăn qua lăn lại trên trần phòng tôi.  Cô nữ sinh công giáo và anh chàng du đãng đạo phật như hai con chó đuổi đuôi của nhau.  Riết rồi cũng thành một con chó, một cái đuôi.  

Trông như đàn ông vì không có tóc nhưng mẹ vẫn là mẹ.  Lại có lúc tôi nhìn và nhìn và nhìn lâu đến độ màu sắc vũ trụ như bơi lộn chung quanh mà vẫn không thấy mẹ.  Tay mẹ luôn ôm lấy tôi, hai bàn tay dân ruộng, móng tay bè bè và biểu cảm như cái mũi của mẹ.  Mẹ có dáng đi nhìn xa biết ngay.  Khoan thai nhưng hối hả, dáng đi của người đàn bà cắp chặt rổ vào nách đi chợ.  Ngay cả khi đi tay không mẹ cũng như những cái bó vô hình mà chỉ có mẹ mới có thể tháo gỡ được.  Và nếu có không bao giờ gặp lại mẹ, tôi vẫn nhận ra mẹ qua mùi muối biển và dấu chân của tôi trên cát, chạy đi chạy về, chạy đi chạy về, gia đình của tôi.

Khi giấy đuổi nhà gửi đến, chúng tôi không tin nên vất vào sọt rác.  Giấy nói có một tháng để dọn đi.  Người chủ mới muốn phá sập để xây nhà mới đẹp hơn.  Giấy nói muốn ở lại thì được ưu tiên nhưng chúng tôi đủ tiền trả giá thuê mới nên cũng như không.  Giấy cũng nói nếu không dọn đi đúng kỳ hạn thì đồ đạc sẽ bị tịch thu chiếu theo một sắc luật nào đó mà chúng tôi không hề biết đến.  Chúng tôi nghĩ làm gì có chuyện đó nên vất sọt rác.

Hàng rào mắt cáo màu bạc, kêu lách cách khi lắc mạnh và oằn cong khi dựa vào.  Nó quây chung quanh khu xóm như một cơn ác mộng nhưng không tức cười như giây phơi quần áo với những áo quần bay phất phới như con chim trong trò ảo thuật.  Những hàng rào này đâm sâu vào trí não.  Ba người chúng tôi đứng yên như những cây cột.  Hết nhìn hàng rào rồi lại nhìn nhau--bên này bên kia.  Nghĩ gì vậy, trời hỡi.  

Tối đến chúng tôi trở lại, mang theo ba ông chú.  Bố khoét lỗ hàng rào cho mọi người chui qua.  Chúng tôi chui cửa sổ sau vào nhà.  Chúng bỏ hết nồi niêu soong chảo, quần áo dầy dép, tượng đức Mẹ, tượng Phật bà vào trong túi rác mười gallon.  Làm vừa xong thì nghe tiếng còi hụ cảnh sát.

Chúng tôi chui qua cửa sổ như sang một lục địa khác.  Mẹ ngồi trong xe truck gọi tên bố, giọng như bàn tay sờ soạng thân cây trong bóng tối.

Trong xe mẹ bắt đầu khóc.  “ Biển tôi đâu? Vườn tôi đâu?”  Bố nói sáng mai sẽ trở lại đào xả và gấp biển lại thành một miếng vuông màu xanh.  Mẹ vẫn nức nở đập vào thành xe.  “ Nói nghe coi, nói nghe coi… vì ai mà ra nông nỗi này?  Tại sao đi đâu cũng thấy hàng rào kẽm gai? Tại sao lúc nào cũng có kẻ đứng bên này, người ở bên kia? Tại sao cứ phải bỏ đi mãi như vậy?”

Mọi người im lặng, không biết nói gì.

“ Mang tôi về.  Tôi để quên cha mẹ tôi lại rồi.  Anh Minh, anh để cha mẹ tôi ở lại để cho chết.  Mang tôi về đi.”

Mẹ muốn bố ngừng xe nhưng bố chẳng hiểu tại sao.  Ba người chú ngồi một dọc sau xe truck nghĩ là mẹ điên.  “ My, bộ chị tính đi bộ về Việt Nam hả?”

Bố đạp ga và chiếc xe lồng lên lao xuống đường đồi Crandall street.  Mẹ ôm đầu rên rỉ.  Nhìn ra ngoài, tôi thấy Vạn lý trường thành.  Dưới ánh sáng chói chan của bóng điện đường nó chỉ là một dải các tông dài.

Sáng dậy, con đường Westinghouse trải dài như một nét vẽ lởm chởm màu vàng nắng cháy.  Phía bên kia hàng rào có một tấm bảng với hàng chữ

NHÀ MỚI SẮP XÂY
CONDO- TOWNHOUSES- FAMILY HOME

Bên dưới hàng chữ là hình vẽ của một khu chung cư màu hồng to lớn.

Chúng tôi đứng cạnh hàng rào, hít hà hương xả.  Một quả tạ khổng lồ đang nhảy múa như điên cuồng trên căn nhà của chúng tôi.  Tất cả đã tan tành thành bình địa.  Rồi tôi nghe tiếng mẹ gọi thì thầm.  “ Cha ơi, mẹ ơi.”  Cả vũ trụ là hai cánh bướm vo ve bên tai.

Hãy lắng nghe… họ đang ngồi trên gác xép như hai người thuộc hoàng tộc.  Óng ánh trong bóng tối, tan tành bởi quả tạ.  Những mảnh giấy bay lượn trên mặt biền.

Không một vết máu nào ngoại trừ trong cổ họng tôi, trong khi đang kể truyện cho các bạn.


















Friday, July 8, 2016

Tên Nằm Vùng

 Nguyễn Thanh Việt là một nhà văn người Mỹ gốc Việt và hiện là Giáo sư tại Đại học University of Southern  California.  Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Sympathizer, đã được trao nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 2016.

Tôi xin dịch tặng các bạn chương đầu của cuốn The Sympathizer để đọc chơi.  

Tên Nằm Vùng
Chương Một
Nguyễn Thanh Vệt


Tôi là một gián điệp, một cán bộ nằm vùng, một tình báo viên, một kẻ hai mang. Và vì thế tôi có là kẻ một dạ hai lòng thì cũng chẳng có gì làm lạ.  Tôi chẳng phải là một loài yêu quái bị hiểu lầm trong truyện bằng tranh hay phim kinh dị, dù có kẻ đã từng xem tôi như vậy.  Tôi chỉ có khả năng nhìn hai mặt của bất cứ một vấn đề nào.  Khi tự đắc, tôi xem đấy là một cái tài, và dù chỉ là một tài vặt, nhưng nó là cái tài duy nhất của tôi.  Lại có lúc tôi nghĩ, mình không muốn nhìn đời như vậy cũng chẳng được, thế thì cái đó có đáng gọi là tài hay không.  Bởi vì tài là cái gì mình sử dụng chứ không phải cái sử dụng mình.  Cái tài mà mình bắt buộc phải dùng và còn sai khiến mình--thì thú thật mà nói--phải gọi đấy là cái họa.
Nhưng trong ngày tháng bắt đầu bản tự thú này,lối nhìn đời của tôi vẫn có vẻ là ưu điểm hơn là hiểm họa, và đó chính là lúc mà hiểm hoạ bắt đầu xuất hiện.  

Tháng nói tới đây là tháng Tư, cái tháng tàn nhẫn nhất.  Đó là tháng mà một cuộc chiến kéo dài đã lâu đã bắt đầu cụt chân cụt tay, như thường hay xảy ra trong chiến tranh.  Đó là một tháng có sống chết cho toàn thể dân tộc của một góc nhỏ của thế giới, nhưng lại hoàn toàn vô nghĩa đối với đa số sống trên phần thế giới còn lại.  Đó là sự chấm dứt của một cuộc chiến và bắt đầu của một --- à, dùng chữ “hoà bình” chắc không đúng phải không, ngài Tổng Giám Thị?   Đó là một tháng mà tôi chờ đợi từ lâu, sau bức tường của ngôi biệt thự mà tôi đã sống năm năm qua, bức tường ghim mảnh thủy tinh màu nâu óng ánh và bọc bởi hàng dây kẽm gai rỉ sét.  Tôi có phòng riêng trong biệt thự, cũng như tôi đang có phòng riêng trong trại của ông, phải không ngài Tổng Giám Thị?   Dĩ nhiên chính xác ra phải gọi là “phòng biệt giam,” và thay vì có người làm đến dọn dẹp mỗi ngày, thì ngài đã cho tôi một anh lính gác mặt búng ra sữa.  Và dĩ nhiên anh ta chẳng dọn dẹp gì cả. Nhưng này này, tôi không có than phiền đâu nhé.  Tôi chỉ cần có một chỗ yên tịnh để viết bản tự thú chứ chẳng cần phải sạch sẽ làm cái quái gì.

Biệt thự ông Tướng ban đêm tuy khá  yên ắng, nhưng ban ngày thì không.  Tôi là sĩ quan duy nhất của ông Tướng được sống chung nhà, tôi cũng là thuộc cấp còn độc thân duy nhất và là tùy viên thân tín nhất.  Buổi sáng, trước khi chở ông đi một quãng ngắn tới văn phòng, tôi ngồi ăn sáng với ông, phân tích những bản phúc trình ở đầu bàn ăn bằng gỗ tếch trong khi vợ ông cai quản bốn đứa con có kỷ luật ở đầu kia, đứa mười tám, đứa mười sáu, đứa mười bốn, và đứa mười hai, với một ghế để trống cho cô con gái đi du học bên Mỹ.  Không phải ai cũng sợ cái giờ phút chót, nhưng ông Tướng đã sợ một cách hợp lý.  Ông dáng người mảnh khảnh.  Ông đã từng đi chinh chiến lâu năm, có nhiều huy chương, mà trong trường hợp ông, xứng đáng.  Ông chỉ có chín ngón tay và tám ngón chân, ba ngón kia mất vì đạn và miểng đạn, nhưng chỉ có gia đình và người thân cận mới biết tình trạng của bàn chân trái của ông.   Tham vọng của ông ít khi nào bị cản trở, trừ việc tìm ra chai Bourgogne để uống với những người bạn biết thưởng thức, có nghĩa là những người  không cho đá cục vào rượu vang.  Ông là một người sành ăn và là một người đi đạo Thiên Chúa Giáo, theo đúng thứ tự: một tín đồ thích ăn ngon; vợ con; người Pháp và người Mỹ.  Ông quan niệm họ đã bảo hộ nước ta tốt hơn mấy thầy bùa ngoại bang đã thôi miên người anh em miền bắc và dăm người anh em miền nam: Karl Marx, V.I. Lenin, và Mao Chủ Tịch.  Không đời nào ông chịu đọc mấy triết gia đó!  Đó là nhiệm vụ của tôi, là người tùy viên và nhân viên tình báo cấp dưới tôi phải soạn sẵn bài viết tóm tắt về Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản hay Quyển Sách Đỏ của Mao chẳng hạn.  Còn việc biểu diễn kiến thức về tư tưởng kẻ thù thì cái đó tùy ông.  Ông thích nhất câu hỏi của Lê Nin mà ông vẫn ăn cắp mỗi khi cần: Thưa quý vị, ông nói, gõ bàn bằng những ngón tay quả quyết, ta phải làm cái gì?  Thực ra Nikolay Chernyshevsky mới là người đưa ra câu hỏi đó trong cuốn tiểu thuyết có cùng tên, nhưng có nói với ông tướng thì cũng vậy.  Có mấy ai còn nhớ Chernyshevsky là ai? Chỉ có Lê Nin là đáng kể, con người của hành động đã cuỗm câu hỏi về làm của riêng cho mình.

Trong cái tháng Tư đen tối nhất này, khi đối diện với câu hỏi phải làm gì, ông tướng mà trước đây lúc nào cũng tìm ra việc để làm, lại không làm được gì.  Một người mà trước đây đã cả tin vào cái mission civilisatrice-nghĩa vụ khai hóa và Phương Thức Kiểu Mỹ cuối cùng cũng bị con rệp của lòng hoài nghi nó đốt vào đít cho.  Giờ bỗng nhiên mắc chứng mất ngủ, ông đi lang thang trong biệt thự mà nước da xanh mét như người bị sốt rét.  Kể từ khi mặt trận phía bắc thất thủ hồi tháng Ba vài tuần trước đây, ông hay xuất hiện trước cửa văn phòng hay phòng ngủ của tôi trong biệt thự để trao tay một mẩu tin, thường là bi quan.  Có tin nổi không? Ông hỏi, và tôi có hai câu trả lời: Dạ không! hay Thật là khó tin!  Chúng tôi không tin là thành phố Ban Mê Thuột thơ mộng, dễ thương, quê hương vùng cao nguyên của tôi, đã bị thất thủ đầu tháng Ba.  Chúng tôi không thể tin rằng tổng thống Thiệu, cái tên mà khi phát âm phải phun nước miếng tung toé của chúng tôi đã không hiểu sao lại ra lệnh cho lực lượng phòng thủ cao nguyên phải triệt thoái.  Chúng tôi không thể tin là Đà Nẵng và Nha Trang đã bị bỏ rơi, hay việc chính quân mình lại bắn sau lưng thường dân khi họ tranh nhau trèo lên xà lan và tàu, con số tử vong lên tới hàng ngàn.  Khi còn lại một mình trong văn phòng, tôi chụp vi ảnh những bản báo cáo này.  Mẫn, người móc nối của tôi, chắc sẽ hài lòng.  Tôi tuy cũng hài lòng, vì đây là những dấu hiệu của sự tan rã tất yếu của chế độ, nhưng không khỏi mủi lòng trước thảm cảnh của người dân đáng thương.  Có lẽ trên mặt chính trị thì thương hại họ là không đi đúng đường lối, nhưng nếu mẹ tôi còn sống thì cũng sẽ là một trong đám người này.  Mẹ tôi nghèo và chẳng ai đi hỏi người nghèo xem họ có thích chiến tranh không.  Và cũng chẳng ai hỏi họ có muốn chết khát, chết khô trên biển cả, hay muốn bị cướp bóc hãm hiếp bởi chính quân đội phe mình không.  Nếu những vạn người đó còn sống, họ cũng sẽ chẳng tin minh chết như thế nào, cũng như chúng tôi không thể tin rằng người Mỹ--đồng minh của ta, ân nhân của ta, kẻ che chở ta-- đã từ chối yêu cầu viện trợ.  Tiền để làm gì? Để mua đạn dược, xăng nhớt, và phụ tùng cho vũ khí, máy bay, và xe tăng mà chính người Mỹ đã biếu không.  Đúng là dụ cho choác xong không cho thuốc.  (Ông Tướng hay lẩm bẩm là không gì đắt bằng đồ biếu.)

Ăn uống và thảo luận xong suôi, tôi mồi thuốc cho ông Tướng và ông ngồi nhìn vào hư vô, để cho điếu Lucky Strike cháy tới ngón tay.  Khi tàn thuốc cháy làm ông choàng tỉnh khỏi cơn mộng và thốt lên một chữ đáng lý không nên nói, thì Phu Nhân bắt lũ nhỏ đang khúc khích im lặng và nói, nếu ông còn đợi nữa thì mình không thể thoát được.  Ông phải nói Claude kiếm máy bay cho mình ngay đi.  Ông Tướng làm bộ không nghe.  Phu nhân là một người có đầu óc như cái bàn toán, kỷ luật như cán bộ quân trường, và thân hình vẫn còn “có chiều thanh tân" mặc dù đã có năm con cùng chàng.  Tất cả được gói trọn trong một ngoại hình mà những họa sĩ thuộc trường phát Beaux-Arts phải dùng màu êm như phấn, cọ mềm như tơ để mà vẽ.  Tóm lại, bà là một phụ nữ Việt Nam lý tưởng.  Vì hạnh vận đó mà ông Tướng đã phải muôn đời biết ơn và hãi sợ.  Xoa bóp đầu ngón tay bị phỏng, ông nhìn tôi nói, đã đến lúc phải nhờ Claude kiếm máy bay rồi.  Chỉ khi ông nhìn xuống ngón tay bị thương tôi mới dám liếc nhìn Phu Nhân.  Bà chỉ nhướng lông mày.  Ý kiến hay thiếu tướng, tôi nói.

Claude là người bạn Mỹ tín nhiệm nhất, chúng tôi thân đến độ có lần ông tâm sự mình có một phần mười-sáu máu Phi Châu.  À thì ra thế, tôi lúc ấy cũng đã ngà ngà men rượu bourbon Tennessee, bởi vậy nên anh tóc đen, da anh ăn nắng, và anh nhảy cha-cha không kém tụi này.  Beethoven cũng vậy, ông nói.  Hèn chi, tôi nói, anh hát “Happy Birthday" thật có hồn.  Chúng tôi biết nhau hơn hai thập niên, từ hồi ông gặp tôi trên chiếc tầu há mồm năm ‘54 và đã nhìn ra được tài của tôi.  Lúc ấy tôi là một thằng lỏi chín tuổi, khôn sớm, tiếng Anh học lóm của một nhà truyền giáo người Mỹ cũng kha khá.  Còn Claude thì trên danh nghĩa làm việc cho văn phòng cứu trợ người tị nạn.  Hiện thời ông có bàn giấy trong tòa đại sứ Mỹ, ngoài mặt thì ông có trách nhiệm khuyến khích phát triển kỹ nghệ du lịch của cái đất nước chìm ngập trong chiến tranh của chúng tôi.  Việc này, như chắc bạn có thể tưởng tượng được, đòi hỏi phải vắt khô chiếc khăn mù xoa đẫm mồ hôi của tinh thần cái-gì-cũng-làm-được của người Mỹ.  Thực ra Claude là một anh Xịa đã có mặt ở Việt Nam từ thời Pháp còn đô hộ.  Thời đó, khi CIA còn là OSS, Hồ Chí Minh đã đến họ nhờ giúp đánh Pháp.  Ông mượn lời đến cả những vị sáng lập nước Mỹ trong bản tuyên ngôn độc lập của nước tôi.  Người chống ông Hồ nói ông nói xuôi nói ngược, nhưng Claude tin là ông nhìn thấy cả hai mặt cùng một lúc.  Tôi gọi Claude từ văn phòng tôi, cùng hành lang với phòng đọc sách của ông Tướng, và nói tiếng Anh cho nó biết là ông Tướng đã hết hy vọng rồi.  Tiếng Việt của Claude đã dở mà tiếng Pháp còn tệ hơn, nhưng tiếng Anh thì xuất sắc.  Tôi nói vậy chỉ vì những người Mỹ khác chưa chắc đã được như vậy.

Hết rồi, tôi nói.  Tôi tưởng Claude thế nào cũng phản đối và cãi là máy bay thả bom Mỹ vẫn có thể bay kín bầu trời, hay không quân Mỹ sẽ mang chiến đấu cơ đến giải cứu, nhưng Claude đã không làm tôi thất vọng.  Để tôi coi xem có thể dàn xếp gì được, hắn nói, có tiếng xì xầm phía sau.  Tôi tưởng tượng quang cảnh tòa đại sứ hỗn loạn, máy têlêtip nóng hổi, điện tín khẩn cấp chạy nối chằng chịt giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn, nhân viên làm việc không ngừng nghỉ, và mùi chiến bại nồng nặc át cả máy điều hòa không khí.  Giữa đám người bồn chồn nóng nảy, Claude vẫn tỉnh bơ, sống đây quá lâu nên khí hậu nhiệt đới ẩm thấp không làm hắn đổ mồ hôi.  Trong bóng tối, hắn có thể đến gần mà không ai biết, nhưng ở xứ tôi thì hắn không thể tàng hình được.  Tuy là thành phần trí thức, hắn lại thuộc một giống người Mỹ đặc biệt, loại vai u thịt bắp chèo thuyền và gồng con chuột bự.  Trong khi giới học giả xứ tôi có khuynh hướng nhỏ con, cận thị, và nước da xanh sao thì Claude cao sáu feet hai, mắt sáng, và mỗi sáng hít đất hai trăm cái trong khi thằng ở người Nùng ngồi trên lưng.  Lúc nào có giờ là hắn đọc sách, và mỗi lần đến biệt thự chơi bao giờ cũng kẹp một cuốn sách dưới nách.  Khi đến thăm mấy ngày sau, cuốn sách mà hắn cầm theo là cuốn Chủ Nghĩa Cộng Sản Châu Á  và Phương Thức Tàn Phá Đông Phương của Richard Heff.

Tôi được cuốn sách; ông Tướng được chai Jack Daniel--nếu cho chọn thì tôi chọn chai rượu.  Tuy vậy tôi vẫn lật mấy trang đầu đọc lướt qua.  Trang bìa đầy lời khen tặng hào hển như viết bởi mấy cô bé mới lớn còn hâm mộ thần tượng, chỉ khác là những lời khen líu lo đến từ hai ông tổng trưởng quốc phòng, một vị thượng nghị sĩ đã sang thăm nước tôi hai tuần để tìm hiểu sự thật, và một anh xướng ngôn viên truyền hình nổi tiếng, có giọng nói bắt chước in hệt như một Môi-Se thủ diễn bởi Charlton Heston.  Lý do của sự phấn khích có thể tìm thấy được trong phụ đề đầy ý nghĩa, Về sự Hiểu Biết và Đánh Bại Mối Đe Doạ Mác Xít với Á Châu.  Khi Claude nói ai cũng đọc cuốn hướng dẫn làm-thế-nào, tôi nói thế thì tôi cũng phải đọc cho bằng được.  Ông Tướng khui chai rượu ra nhưng lòng dạ đâu mà nói chuyện sách vở vớ vẩn, nhất là trong khi mười tám sư đoàn quân địch đang bao vây thủ đô.   Ông chỉ muốn nói chuyện máy bay, và Claude xoa tròn ly whít-ky trong lòng bàn tay nói chỉ còn một chuyến C-130 bay lén mà thôi.  Chiếc này có thể chở chín-mươi-hai người lính nhảy dù trang bị đầy đủ.  Cái này thì ông Tướng quá rành vì đã từng phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù trước khi được tổng thống kéo về trông coi Cảnh Sát Quốc Gia.  Vấn đề là, ông nói với Claude, nội đại gia đình ông không thôi đã tới năm-mươi-tám người.  Vài người ông không thích, có người ông còn khinh nữa là đàng khác, nhưng nếu ông không cứu hết họ hàng của bà thì Phu Nhân sẽ không bao giờ tha thứ cho ông.  

Còn nhân viên của tôi thì sao, Claude?  Ông Tướng nói bằng một thứ tiếng Anh trịnh trọng và chính xác.  Sao là sao?  Cả ông Tướng lẫn Claude quay lại nhìn tôi.  Tôi cố ra vẻ can đảm.  Tuy không phải là sĩ quan thâm niên quân vụ nhất, nhưng tôi là tùy viên và là sĩ quan rành rẽ văn hóa nước Mỹ nhất, tôi tham dự tất cả những buổi họp của ông Tướng với người Mỹ.  Cũng có dăm người đồng hương nói tiếng Anh không kém tôi, tuy hơi có tí tị accent.  Nhưng có đứa nào có thể thảo luận bóng chày, hay chuyện con Jane Fonda nó cà chớn như thế nào, hay giữa hai ban nhạc Rolling Stones và the Beatles, ban nào hay hơn, bằng tôi.  Nếu một anh Mỹ nhắm mắt khi nghe tôi nói thì thế nào cũng tưởng tôi là người đồng hương.  Thật vậy, khi nói chuyện điện thoại, người ta hay tưởng nhầm tôi là người Mỹ.  Khi gặp mặt, họ ngạc nhiên hỏi học tiếng Anh đâu mà nói hay thế?   Trong cái nền cộng hòa quả mít được ủy quyền của Hoa Kỳ này, người Mỹ tưởng không ai nói tiếng Anh, hoặc có nói thì cũng nói tiếng bồi, hay tiếng Anh có accent.  Tôi rất xì nẹc với thái độ đó.  Bởi thế cho nên tôi lúc nào cũng sẵn sàng biểu diễn khả năng viết và nói của tôi.  Vốn ngữ vựng của tôi dồi dào hơn, văn phạm của tôi chính xác hơn một thằng Mỹ có học trung bình.  Ăn nói lịch sự cũng được mà ngôn từ ba búa tôi cũng chẳng thua ai, và bởi vậy nên tôi hiểu rỏ Claude muốn nói gì khi gọi ngài đại sứ là thằng “putz” hay thằng “jerkoff,”
“ đút đầu trong đít,” vì ông ta không chịu chấp nhận thực tế là thành phố sắp đổ tới nơi rồi.  
Chính thức thì hoàn toàn không có kế hoạch di tản, Claude nói, bởi vì chúng tôi có tính đến chuyện rút đâu.

Ông Tướng trước giờ chưa bao giờ lớn tiếng, giờ thì gào to.  Mấy anh bỏ rơi chúng tôi không chính thức.  Máy bay ngày đêm rời phi trường.  Người nào làm cho Mỹ cũng muốn giấy xuất cảnh.  Họ đến tòa đại sứ của mấy anh để xin.  Các anh đã cho phụ nữ các anh di tản.  Các anh đã mang đi trẻ con mồ côi.  Tại sao chỉ có người Mỹ là không biết người Mỹ đang bỏ chạy? Claude dễ thương ở chỗ cũng tỏ vẻ mắc cở khi giải thích thành phố sẽ nổi loạn nếu lệnh di tản được tuyên bố, và rất có thể sẽ tấn công những người Mỹ còn ở lại.  Chuyện này đã xảy ra ở Đà Nẵng và Nha Trang, khi người Mỹ đã phải bỏ của chạy lấy người và để dân chúng ở lại thanh toán lẫn nhau.  Nhưng dù có tiền lệ như vậy nhưng không khí ở Sài Gòn vẫn êm ả một cách lạ lùng, đa số dân Sài Gòn vẫn như cặp vợ chồng trong một hôn nhân đã chìm xuồng, sẵn sàng bám vào nhau để cùng chết đuối miễn sao không ai nói lên cái sự thật của vụ ngoại tình.  Sự thật, trong trường hợp này, là tối thiểu một triệu người đã làm việc cho người Mỹ dưới tư cách này hay tư cách khác, từ đánh giày cho tới điều động một quân đội theo kiểu Mỹ cho đến bú cặc họ với cái giá của một cái hamburger ở Peoria hay Poughkeepsie.  Một số lớn những người này tin là nếu cộng sản thắng--một điều mà họ từ chối không tin sẽ xảy ra--thì họ sẽ một đi tù, hai bị tử hình, và con gái thì phải đi lấy lũ mọi rợ.  Họ tin vậy cũng phải vì đấy là những tin đồn tung ra bởi CIA.  

Vậy thì--ông Tướng vừa bắt đầu nói thì bị Claude ngắt lời.  Ngài có một chiếc máy bay là may lắm rồi.  Ông Tướng không phải là hạng người xin xỏ.  Ông nốc cạn ly whít ki giống như Claude rồi bắt tay chào giã từ, mắt lúc nào cũng nhìn thẳng vào mắt của Claude.  Có lần ông Tướng đã nói với tôi, người Mỹ thích nhìn thẳng mắt người ta, nhất là khi nó đang chơi vào đít mình.  Claude không thấy vậy.  Các tướng khác chỉ được chỗ cho gia đình ruột thịt, Claude nói với chúng tôi khi chia tay.  Ngay cả đến Đức Chúa Trời và Noah mà còn không cứu được mọi người.  Hay không muốn thì đúng hơn.

Có đúng vậy không? Nếu là bố tôi thì ông sẽ nói gì? Ông là một linh mục Công Giáo, nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy ông giảng về Noah, tuy tôi chỉ đi lễ để mà mơ mộng.  Nhưng không cần biết Đức Chúa Trời hay Noah có thể làm gì, chắc chắn là tất cả nhân viên của ông Tướng, nếu có cơ hội, sẽ cứu một trăm người họ hàng thật cũng như họ hàng giả mạo nhưng có tiền hối lộ.  Gia đình Việt Nam rất ư là phức tạp và tế nhị, và tuy đôi lúc tôi cũng thèm có gia đình, vì là con một của một người mẹ bị ruồng bỏ, nhưng lúc này thì không.

Một lát sau ông tổng thống từ chức.  Tôi đã ngỡ là ông ta sẽ bỏ nước ra đi cả mấy tuần trước  theo kiểu một nhà độc tài, và tôi chẳng thèm nghĩ đến ông trong khi chuẩn bị danh sách người tị nạn.  Ông Tướng là người khó tánh và để ý chi tiết, quen làm những quyết định nhanh và khó, nhưng đây là một công việc mà ông nhường cho tôi.  Ông còn đang lo với những vấn đề văn phòng như đọc báo cáo, đi họp ở Tổng Tham Mưu, gọi người tâm phúc để bàn làm cách nào bảo vệ thủ đô nhưng cũng đồng thời sẵn sàng bỏ rơi tất cả, một trò chơi quỉ quái không kém trò đi vòng quanh ghế theo điệu nhạc ưa chuộng nhất, để sẵn sàng ngồi xuống khi nhạc bất thình ngưng lại, anh nào không có ghế thì bị thua.   Trong đầu tôi đang nghĩ đến nhạc, vì trong khi đang soạn thảo danh sách, tôi nghe đài phát thanh Mỹ qua cái máy Sony trong phòng tôi ở biệt thự.  Những bản nhạc của The Temptations và Janis Joplin và Marvin Gaye thường giúp ta ngửi nổi cái thối tha và làm thơm cái thơm sẵn, nhưng những lúc như thế này thì không.  Mỗi một cái tên bị gạch ngang cảm thấy như một bản án tử hình.  Tên của tất cả chúng tôi, từ sĩ quan cấp thấp nhất cho đến ông Tướng, đều có đầy đủ trong một tờ giấy nhét vào miệng của một người đàn bà khi chúng tôi phá cửa xông vào nhà ba năm trước đây.  Tôi có báo cho Mẫn nhưng không kịp đưa tin đến cô ta.  Khi viên cảnh sát đè cô ta xuống đất, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thọc tay vào miệng người đặc công Cộng Sản này để lấy ra tờ danh sách thẫm ướt nước bọt.  Tờ giấy bồi này cho thấy là thành viên của Cơ Quan Đặc Vụ, trước giờ quen theo dõi người ta, nay lại bị theo dõi ngược.  Ngay cả nếu tôi có một phút riêng tư cũng không thể tiết lộ cho nàng biết tôi cùng phe.  Số phận của nàng ra sao tôi đã quá rõ.  Người nào bị Cơ Quan Đăc Vụ thẩm vấn rồi cũng sẽ khai, và nàng dù muốn dù không cũng sẽ khai bí mật của tôi.  Nàng trẻ hơn tôi nhưng đủ kinh nghiệm đễ biết số phận của mình.  Trong một khoảnh khắc tôi thấy được sự thật trong đôi mắt, sự thật là nàng ghét tôi vì tưởng tôi là công cụ cho một chính quyền đàn áp.  Rồi, giống như tôi, nàng nhớ ra vai trò phải thủ diễn.  Ông ơi, làm ơn làm phước! Nàng kêu lên.  Tôi thề tôi vô tội.

Ba năm sau, người đặc công Cộng Sản này vẫn còn nằm tù.  Tôi vẫn còn giữ hồ sơ của nàng trên bàn giấy, để nhắc việc tôi đã không cứu được nàng.  Cũng lỗi tại tôi, Mẫn nói.  Ngày giải phóng tôi sẽ đích thân đến mở cửa tù cho nàng.  Khi bị bắt nàng mới có hai-mươi-hai tuổi, trong hồ sơ có hình lúc bị bắt, và một tấm mấy tháng trước đây, mắt nàng đã mờ và mái tóc thưa thớt.   Nhà tù nơi đây là cái máy thời gian, người ở tù già đi hơn bình thường nhiều.  Nhìn vào những tấm hình, trước kia và bây giờ, đã giúp tôi công việc chọn vài người để cứu rỗi và tuyên án nhiều người khác, kể cả vài người tôi thích.  Tôi soạn đi soạn lại danh sách trong khi những người cố thủ Xuân Lộc bị tàn sát và, bên kia biên giới, Nam Vang rơi vào tay Khờ Me Đỏ.  Vài tối sau, ông cựu tổng thống đã lẻn trốn sang Đài Loan.  Claude là người chở ông ra phi trường, và để ý thấy những va li vừa nặng mà còn có tiếng kêu lẻng kẻng, có lẽ là một phần không nhỏ của vàng dự trữ quốc gia.   Hắn kể tôi nghe ngày hôm sau khi gọi cho biết máy bay chúng tôi sẽ bay trong hai ngày.  Tôi hoàn tất danh sách xong tối hôm ấy, nói ông Tướng là tôi đã quyết định hành động một cách dân chủ và tiêu biểu, đã chọn sĩ quan cấp cao nhất, sĩ quan ai cũng nghĩ là thanh liêm nhất, người tôi thích làm việc kề cận nhất, và đại loại như vậy.  Ông chấp nhận lý luận của tôi và hậu quả tất yếu là sẽ có một số không nhỏ sĩ quan thâm niên với kiến thức và tội nhiều nhất trong Cơ Quan Đặc Vụ sẽ bị bỏ lại.  Cuối cùng tôi có được một đại tá, một thiếu tá, một đại úy, và hai trung úy.  Riêng mình tôi, tôi thêm ba chỗ cho vợ chồng Bổn, và thằng con trai và cũng là con đỡ đầu của tôi.  

Khi ông Tướng sang thăm tôi tối hôm ấy để than thở, tay cầm theo nửa chai whít-ki, tôi xin được mang Bổn theo.  Mặc dù không phải anh em ruột thịt nhưng nó đã là một trong hai thằng bạn uống máu ăn thề từ thời đi học.  Mẫn là thằng thứ hai.  Ba đứa tôi nguyện chung thủy với nhau đến mãn đời rồi cắt những bàn tay của con trai mới lớn rồi trộn máu bằng cách bắt tay.  Trong ví tôi có một tấm hình đen trắng của Bổn và gia đình.  Bổn có khuôn mặt của một người đẹp trai đã bị đánh bầm dập, nhưng đó là bộ mặt cha sanh mẹ đẻ của nó.  Ngay cả cái mũ nhảy dù và bộ chiến bào rằn ri da hổ cũng không thể làm người ta quên đi hai cái tai như cánh dù, cái cằm lúc nào cũng gập xuống ngấn cổ, và cái mũi lệch sang bên phải, như khuynh hướng chính trị của nó.  Còn Linh, vợ nó, thì thi sĩ có thể so sánh mặt nàng với trăng rằm, không chỉ vì hình dáng tròn đầy mà còn vì những vết sẹo trứng cá lấm tấm và lỗ chỗ trên mặt.  Làm sao mà hai đứa nó lại có thể đẻ ra một thằng con dễ thương như Đức thì tôi cũng không hiểu nổi.  Hay có lẽ giản dị như hai cái âm nhân lên thành dương.  Ông Tướng đưa trả tôi tấm hình và nói, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm được.  Anh ấy là nhảy dù.  Nếu quân đội mình toàn nhảy dù không thôi thì mình đã thắng trận.

Nếu...nhưng chẳng có nếu niếc gì cả, chỉ có sự thật không thể chối cãi của ông Tướng đang ngồi trên thành ghế trong khi tôi đứng cạnh cửa sổ, nhấm nháp ly whít-ki.  Ngoài sân, anh binh nhì đang bỏ từng vốc giấy tờ mật vào ngọn lửa cháy rực rỡ trong cái thùng phuy năm-mươi-lăm ga-lông, làm đêm đã nóng còn nóng hơn.  Ông Tướng đứng dậy, đi qua đi lại trong căn phòng bé tí teo của tôi, ly rượu cầm tay, chỉ mặc có cái quần xà lỏn và áo thung lá và cằm thì lún phún râu.  Chỉ có người làm, gia đình ông, và tôi thấy ông như vậy.  Khách đến thăm biệt thự bất kỳ giờ nào thì ông cũng chải tóc bi-ăng-tin, mặc đồ ka-ki hồ cứng ngắc và ngực đeo nhiều dây băng hơn hoa hậu.  Nhưng tối nay, ngôi biệt thự hoàn toàn yên ắng ngoại trừ tiếng súng đó đây, thì ông cho phép mình than thở.  Người Mỹ hứa cứu nếu cứ nghe lời nó.  Nó là người bắt đầu cuộc chiến, rồi cũng chính nó là người chán chiến tranh.  Nó đã bán đứng mình, ông nói, rót cho tôi một ly nữa.  Nhưng lỗi của mình thì đổ thừa cho ai bây giờ?  Mình khờ mới tin chúng nó giữ lời hứa.  Giờ biết đi đâu bây giờ ngoại trừ nước Mỹ.  Sang Mỹ là còn đỡ, tôi nói.  Có lẽ vậy, ông nói.  Tối thiểu còn sống để chiến đấu lại.  Nhưng lúc này thì mình bị chơi tới bến.  Bây giờ chúc sao đây?

Tôi nghĩ một hồi rồi nói.  Cho nổ mẹ nó con ngươi luôn, tôi nói.  Dzô.

Tôi không nhớ lượm lặt được lời chúc này ở đâu, và quên cả ý nghĩa của nó, chỉ nhớ là học nó thời sang Mỹ.  Ông Tướng cũng từng sang Mỹ, tuy chỉ vài tháng, hồi còn là sĩ quan cấp nhỏ, cùng huấn luyện với một tiểu đội tại Fort Benning thời ‘58, đó cũng là lúc mà dân Green Beret  nhồi nhét trong đầu ông những ý tưởng chống cộng.  Trường hợp tôi cũng có nhồi mà không vào.  Lúc ấy tôi đã “chui sâu”, nửa sinh viên có học bổng, nửa tình báo tập sự, người Việt duy nhất tại một đại học nho nhỏ nhiều cây cối tên là Occidental với châm ngôn Occidens Proximus Orienti ( Phương Tây gần nhất phương Đông--người dịch.)  Ở đó tôi đã trải qua sáu năm bình dị trong cái thế giới mơ mộng và bị ánh nắng mặt trời làm mụ người của miền Nam Cali trong thập niên sáu-mươi.  Tôi không học về xa lộ hay hệ thống cầu cống hay một môn học hữu ích như vậy.  Thay vào đó, Mẫn, kẻ đồng mưu của tôi, giao cho tôi công tác học lấy lối suy nghĩ của người Mỹ.  Chiến tranh của tôi là loại chiến tranh tâm lý.  Để làm vậy, tôi đã học lịch sử và văn chương Hoa Kỳ, trau giồi văn phạm cho chỉnh, học tiếng lóng, hút cần sa và mất mẹ nó cái trinh.  Nói tóm lại, tôi không chỉ học chương trình cử nhân mà còn lấy luôn bằng thạc sĩ, và thông thạo về tất cả những gì có dính đến người Mỹ.  Ngay đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in lần đầu tiên tôi đọc ông triết gia người Mỹ vĩ đại nhất, Emerson, trên một bãi cỏ cạnh lùm cây dạ hương óng ánh.   Đầu óc của tôi nửa để ý đến mấy nàng nữ sinh viên có nước da rám nắng quyến rũ, mặc áo dây, quần thì cũn cỡn, nằm phơi nắng trên bải cỏ, nửa nhìn vào những hàng chữ đen nằm ngay đơ trên trang giấy trắng--” Nhất trí là quái vật của lũ tiểu trí/ consistency is the hobgoblin of the little minds.”  Trong những điều Emerson viết, chưa  câu nào tả nước Mỹ xác thực hơn, nhưng đó không phải là lý do duy nhất tôi gạch đít hàng chữ một lần, hai lần, ba lần.  Điều làm tôi bị chấn động lúc ấy, và choáng váng bây giờ là, quê mẹ tôi, nơi mà chúng tôi chẳng là gì nếu không tương phản, cũng in hệt như vậy.  

Sáng hôm cuối cùng, tôi chở ông Tướng đến văn phòng của ông tại bộ tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia.  Văn phòng tôi ở cùng hành lang của văn phòng ông Tướng.  Tôi cho gọi năm người sĩ quan đã chọn đến gặp riêng, từng người một.  Tối nay đi? Ông đại tá rất lo lắng hỏi, mắt ông to và ướt.  Đúng.  Thế còn bố mẹ tôi? Bố mẹ vợ tôi? Ông thiếu tá, một người hay rượu chè, mê nhà hàng tàu Chợ Lớn hỏi.   Không.  Anh, chị, cháu, chắt? Không.  Người ăn người làm? Không.  Va-li, quần áo, chén cổ? Không.  Ông đại úy, hơi đi hai hàng vì bệnh lậu, dọa tự tử nếu tôi không cho thêm chỗ.  Tôi đưa ông khẩu súng lục và ông lủi thủi bỏ đi.  Trái lại, mấy anh trung úy trẻ tỏ vẻ biết ơn.  Chức vụ có được nhờ cha mẹ quen biết nên họ có cái tướng cà giật của mấy con múa rối.   

Tôi đóng cửa lại sau khi người cuối cùng đã đi.  Khi những tiếng ầm ầm từ xa làm rung rinh  
cửa sổ, tôi thấy khói lửa bốc lên nghi ngút bên trời đông.  Đạn pháo của giặc đã phá nổ kho đạn Long Bình.  Tôi cảm thấy nửa muốn khóc, nửa muốn ăn mừng. Tôi mở ngăn kéo trong đó còn giữ chai Jim Beam còn vài ngụm.  Mẹ tôi nếu còn sống sẽ nói, đừng uống nhiều vậy, con.  Không có tốt.  Chắc không mẹ? Khi người ta ở vào một cái thế kẹt như tôi, một tên phản gián chui sâu trong hàng ngũ nhân viên của ông Tướng, thì khi nào hưởng được thì cứ hưởng.  Tôi uống cạn chai rượu rồi chở ông Tướng về nhà trong cơn giông bão, nước ối vỡ oà trên đầu thành phố như dấu hiệu cho một mùa sắp tới.   Có người mong mùa mưa có thể làm chậm bước tiến của những sư đoàn đang tiến tới, nhưng tôi nghĩ chưa chắc.  Tôi bỏ bữa ăn tối và chất ba lô với đồ dùng toa-lét, một cái quần chinos, chiếc áo Madras mua tại J. C. Penney ở Los Angeles, đôi giầy loafers, ba cái quần lót, một cái bài chải đánh răng điện mua ở chợ trời, một tấm ảnh có khung của mẹ tôi, phong bì đựng ảnh chụp ở đây và bên Mỹ, máy ảnh Kodak của tôi, và cuốn Chủ Nghĩa Cộng Sản Châu Á  và Phương Thức Tàn Phá Đông Phương.

Cái ba lô là quà của Claude tặng cho nhân dịp lễ ra trường đại học.  Nó là vật sở hữu đẹp nhất của tôi, có thể đeo trên lưng hay, khi gấp dây vài chỗ, biến thành một cái va-li xách tay.  Làm bằng da màu nâu mềm bởi một hãng có uy tín ở New England, chiếc ba-lô sực mùi bí ẩn của lá mùa thu, tôm hùm nướng, và mồ hôi và tinh khí của con trai học trường nội trú  Chữ viết lồng nhau của tên tôi được in dấu bên hông, nhưng đặc biệt nhất là cái đáy giả.  Claude nói thằng đàn ông nào cũng phải có hành lý có đáy giả.  Phòng khi hữu sự.   Hắn đâu có biết tôi dấu cái máy ảnh nhỏ Minox trong đó.  Cái Minox, món quà của Mẫn cho tôi, trị giá gấp mấy lần mức lương hàng năm của tôi.  Tôi đã dùng nó để chụp tài liệu mật nào mà tôi có cơ hội đụng tới và nghĩ có thể có thể sử dụng lại được.   Cuối cùng, tôi chọn trong đám sách vở và đĩa hát, phần lớn mua bên Mỹ và cái nào cũng có đầy dấu ấn của kỷ niệm.  Tôi không còn chỗ cho Elvis hay Dylan, Faulkner hay Twain, và mặc dù tôi có thể mua cái khác, lòng tôi vẫn nặng chĩu khi tôi viết tên Mẫn trên thùng sách vở và đĩa hát.  Nhiều quá chịu không nổi, như cây đàn ghi-ta đã chường cái hông đầy đặn trách móc trên giường khi tôi bỏ đi.   

Chất đồ xong suôi, tôi mượn chiếc Citroen để đi đón Bổn.  Quân cảnh trạm kiểm soát vẫy tay cho đi khi thấy chiếc xe có gắn sao tướng.  Chỗ tôi đến nằm bên kia sông, một thủy lộ bần cùng hai bên là những cái chòi của dân từ quê trôi dạt lên sau khi nhà cửa đồng ruộng của họ đã bị đốt cháy rụi bởi những tên lính mắc bệnh thích đốt nhà hay mấy thằng hỏa phạm chọn đúng nghề bỏ bom.  Qua khỏi cánh đồng bao la của những căn nhà lụp xụp xây cất bừa bãi, đi sâu vào trong quận Tư,  Bổn và Mẫn đang đợi ở một quán nhậu sân vườn, nơi mà ba thằng chúng tôi đã say sưa không biết bao lần mà kể.  Bàn nào cũng đầy lính và thủy quân lục chiến, súng gác dưới bàn, tóc thì gọt trọc bởi những tay thợ húi thô bạo, cố tình cho lòi hình dạng xương sọ vì một mục đích tướng mệnh hộp sọ hiểm ác nào đó.  Chưa kịp  ngồi xuống là Bổn đã rót cho tôi một cốc bia  nhưng bắt đợi nghe lời chúc rượu xong mới được uống.  Mình sẽ gặp nhau lại ở Phi Luật Tân! Tôi nói thực ra là Guam vì nhà độc tài Marcos đã chán người tị nạn rồi và không muốn nhận nữa.  Bổn vừa cầm ly lăn lăn trên trán vừa rên rỉ.  Tôi tưởng là cùng cực hết chỗ nói rồi, nó nói.  Ai ngờ giờ mấy thằng Phi mà cũng xem thường mình nữa sao?  Dẹp mấy thằng Phi qua một bên, Mẫn nói.  Hãy uống mừng Guam.  Người ta nói ban ngày của nước Mỹ bắt đầu nơi đó.  Và ngày tàn của chúng ta, Bổn lẩm bẩm.  

Không như Mẫn và tôi, Bổn là một người yêu nước chân chính, một người cộng hòa đã tình nguyện tòng quân đánh giặc vì đã thù ghét cộng sản kể từ khi thằng cán bộ vùng khuyến khích cha nó, một ông thôn trưởng, quì giữa làng và tự thú trước khi bắn một viên đạn sau tai.  Để mặc nó thì Bổn chắc chắc sẽ chơi kiểu Nhật, đánh cho đến chết hay chỉ súng lên đầu, thế nên Mẫn và tôi đã khuyên nó phải nghĩ đến vợ con.  Bỏ nước chạy sang Mỹ không phải là đào ngũ, chúng tôi nói.  Đây là một cuộc triệt thoái có tính cách chiến lược.  Chúng tôi nói với Bổn là ngày mai Mẫn cũng sẽ trốn với gia đình, trong khi sự thực là Mẫn sẽ ở lại để chứng kiến cuộc giải phóng miền nam bởi đám cộng quân miền bắc mà Bổn vô cùng khinh bỉ.  Giờ thì Mẫn bóp vai nó bằng những ngón tay dài và thanh tú và nói, Mình là anh em kết nghĩa, ba thằng mình.  Thua trận, mình vẫn là anh em, mất nước mình vẫn là anh em.  Nó nhìn tôi mà nước mắt rươm rướm.  Đối với chúng tôi không có kết thúc.

Mày nói phải, Bổn nói, lắc mạnh đầu để che dấu những giọt nước mắt.  Âu sầu ảm đạm như vậy đủ rồi.  Mình sẽ về lấy lại quê hương, đúng không?  Nó cũng nhìn tôi.  Tôi không mắc cở vì những giọt nước mắt của mình.  Hai thằng này còn ngon hơn anh em ruột thịt vì chúng tôi đã chọn nhau. Tôi nâng ly bia lên.  Ly này cho sự trở lại, tôi nói.  Và cho nghĩa huynh đệ không bao giờ chấm dứt.  Chúng tôi nốc cạn ly, gọi bồi mang thêm ra, khoác vai nhau, và một tiếng đồng hồ huynh huynh đệ đệ và nghe nhạc.  Tên chơi đàn là một thằng tóc dài trốn lính, mặt mũi xanh xao vì cả mười năm qua, ban ngày sống chui sống nhủi giữa những bức tường nhà của cha chủ quán, đến đêm mới bò ra.  Nàng ca sĩ là một cô gái tóc dài có giọng êm dịu, dáng người thon thả phác họa bởi chiếc áo dài lụa có sắc hồng trinh nữ.  Nàng đang hát một ca khúc của Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ mà cả dân nhảy dù cũng ái mộ.  
Ngày mai em đi, ….Giọng ca nàng cất cao, át tiếng nói chuyện và tiếng mưa rơi.  Biển nhớ tên em gọi về… Tim tôi chợt thổn thức.  Chúng tôi không phải là một dân tộc lao đầu vào cuộc chiến theo tiếng gọi của tù-và hay kèn quân.  Không, chúng tôi chiến đấu theo điệu nhạc tình, vì chúng tôi là dân Ý cùa Châu Á.  

Ngày mai em đi.  Thành phố mắt đêm đèn mờ ….Nếu Bổn biết đây là lần cuối còn gặp Mẫn thì nó sẽ chẳng bước lên máy bay.  Từ thời học lycée, chúng tôi đã tưởng tượng mình là Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ, ba như một, một như ba.  Mẫn đã giới thiệu chúng tôi với Dumas: trước hết, vì ông là một đại văn hào, và hai, vì ông là người có giòng máu lai Phi Châu.  Vì thế ông trở thành mẫu mực cho chúng tôi, những người mà đất nước là thuộc địa của cùng một dân Pháp đã khinh bỉ ông vì gốc gác của ông.  Là một người mê đọc sách mà lại có tài kể truyện,  nếu thời bình thì Mẫn có thể đã là giáo sư văn chương của chính lycée chúng tôi.  Ngoài việc dịch ba cuốn truyện Perry Mason của Erle Stanley Gardner sang tiếng mẹ đẻ, nó còn viết một cuốn tiểu thuyết xoàng xĩnh kiểu Zola dưới một bút hiệu.  Nó có nghiên cứu về nước Mỹ nhưng chưa bao giờ đặt chân đến đó.  Bổn gọi một phùa bia nữa và hỏi bên Mỹ có vườn nhậu không.  Họ có quán rượu và siêu thị có thể đến đó mua bia, tôi nói.  Thế có em đẹp đứng hát như thế này không? nó hỏi.  Tôi rói đầy cốc nó và nói, họ có gái đẹp nhưng họ không hát mất bài như thế này.

Rồi anh đàn sĩ bắt đầu quạt chả hợp âm của một bài khác.  Họ có hát mấy bài như thế này , Mẫn nói.  Đó là bài Yesterday của ban the Beatles.  Trong khi ba thằng chúng tôi cùng nhau rống cổ lên hát thì mắt tôi bỗng nhoè nhoẹt.  Chẳng biết cuộc đời sẽ như thế nào nếu sống trong thời mà chiến tranh không là định mệnh, không bị lãnh đạo bởi một lũ hèn nhát và thối nát, nền  kinh tế quốc gia không bị khó khăn đến nỗi phải lệ thuộc vào loại viện trợ kiểu truyền nước biển của Hoa Kỳ? Những người lính trẻ chung quanh tôi chẳng biết ai ngoại trừ anh em kết nghĩa của tôi thế nhưng thú thật, tôi thông cảm họ, những người không biết sống nay chết mai, hay bị thương, hay giam cầm, hay làm nhục, hay bỏ rơi, hay lãng quên.  Họ là kẻ thù của tôi, nhưng họ cũng là chiến hữu của tôi.  Thành phố của họ sắp sụp đổ trong khi thành phố của tôi sắp được giải phóng.  Thế giới của họ kết thúc trong khi thế giới của tôi chỉ đổi thay.  Và vì thế, trong hai phút đó chúng tôi hát bằng tất cả tấm lòng, thương cho quá khứ và hướng về tương lai, những người bơi ngửa về phía thác nước.

Đến lúc đi thì mưa cũng vừa tạnh.  Chúng tôi đang hút điếu thuốc cuối cùng ở lối vào của con hẻm ẩm ướt những giọt mưa  và cũng là lối ra của quán bia vườn thì ba anh thủy quân lục chiến lảo đảo bước ra khỏi cái bóng tối âm đạo.  Sài Gòn đẹp lắm. Họ hát.  Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi.  Dù mới có sáu giờ, nhưng họ đã say chếnh choáng, chiến y ướt đẫm bia.  Mỗi anh đeo trên vai một khẩu M16, và một cặp trứng dái tòng teng.  Khi nhìn kỹ thì đấy là hai quả lựu đạn móc hai bên thắt lưng.  Mặc dù quân phục, súng ống, và mũ sắt, giống như của chúng tôi, đều làm bên Mỹ, nhưng nhìn thì rõ ràng họ không phải người Mỹ.  Chiếc mũ sắt bị móp làm lòi tẩy, những cái nồi bằng sắt vừa đầu Mỹ nhưng quá to cho chúng tôi.  Cái đầu của người lính thủy quân lục chiến quay bên này, quay bên kia rồi anh đụng vào tôi và chửi thề, vành mũ sụp xuống ngang mũi.  Khi anh đẩy nó lên, tôi thấy một đôi mắt lờ đờ cố nhìn cho rõ.  Ê!  Anh nói, hơi thở nồng nặc, giọng miền nam đặc sệt nên tôi không hiểu.  Cái gì vậy? Cảnh sát hả?  Đi đâu với lính thứ thiệt vậy?

Mẫn búng tàn thuốc vào người anh ta.  Ông cảnh sát này là đại úy.  Chào thượng cấp đi trung úy.

Anh thủy quân lục chiến thứ hai, cũng là trung úy, nói, phải không đó, thiếu tá, và anh thủy quân lục chiến thứ ba, cũng là một trung úy, nói, Tướng hay tá cũng kệ mẹ nó.  Tổng thống giông rồi.  Tướng hả?--xì!   Bay như mây khói.  Lúc nào cũng vậy.  Lo cho cái thân mình trước.  Biết gì không? Để lại mấy thằng này để chặn hậu.  Bao giờ cũng vậy.  Triệt thoái cái con mẹ gì ? anh thủy quân lục chiến thứ hai nói.  Có chạy đàng trời.  Chỉ có chết.  Anh đầu tiên nói.  Bổn phận là phải chết.
Tôi búng điếu thuốc đi.  Mấy anh chưa có chết.  Trở về đơn vị đi.
Anh thủy quân lục chiến đầu tiên nheo mắt nhìn kỹ mặt tôi, bước lại gần cho tới khi mũi chạm mũi.  Anh là cái thá gì?

Trung úy không được vô lễ!  Bổn quát lên.
Để tui nói anh là ai.  Người thủy quân lục chiến dí ngón tay vào ngực tôi.
Đừng có nói, tôi nói.
Đồ con hoang! Anh ta thét lên.  Hai anh lính kia phá lên cười và phụ họa.  Đồ con hoang!
Tôi rút khẩu súng chỉa giữa hai con mắt anh ta.  Hai anh kia rờ khẩu M16 nhưng còn lưỡng lự.  Tuy say nhưng họ vẫn biết không thể nhanh hơn mấy ông bạn còn tỉnh táo của tôi.
Mấy ông say đúng không, trung úy? Giọng tôi run run.
Dạ đúng, anh thủy quân lục chiến nói.
Vậy tôi sẽ không bắn anh.
May sao đúng lúc có tiếng nổ.  Mọi người quay đầu về hướng bom nổ, tiếp theo là một tiếng nữa và một tiếng nữa, về phía tây bắc.  Phi trường, Bổn nói.  Hai trăm kí lô.  Từ chỗ chúng tôi đứng không thể thấy gì.  Một lúc sau thì khói đen cuồn cuộn bốc lên.  Rồi làm như tất cả súng ống từ dưới phố cho tới phi trường đều nổ cùng một lúc, súng nhẹ kêu cách-cách-cách và súng nặng kêu ục-ục-ục, tên lửa màu cam bay như mưa rào lên trời.  Tiếng ồn ào huyên náo làm tất cả người dân của con đường tồi tàn đổ xô ra cửa và tôi đút khẩu súng vào bao.  Choàng tỉnh vì sự xuất hiện của nhân chứng, mấy ông trung úy trèo lên xe jeep và không nói một lời nào, rồi họ lái lượn giữa vài chiếc Honda trên đường cho tới khi đến ngả tư.  Chiếc xe jeep bỗng ngừng lại và mấy chàng thủy quân lục chiến trèo ra, tay cầm M16, mặc cho bom tiếp tục nổ và thường dân đứng đầy đường.  Tim tôi thót lại khi thấy họ trừng mắt nhìn tôi dưới ánh vàng vọt của cột đèn đường, nhưng họ chỉ chỉa súng lên trời gầm thét bắn cho đến khi hết đạn. Tim tôi đập nhanh và mồ hôi chảy xuống ướt đẫm lưng, nhưng tôi cười vì bạn và châm một điếu thuốc khác.

Lũ ngu xuẩn! Bổn hét to trong khi dân chúng lom khom trong cửa.  Mấy anh thủy quân lục chiến chửi chúng tôi một tràng trước khi leo lên xe jeep, quẹo góc đường, và biến mất.  Bổn và tôi chào tạm biệt Mẫn, và sau khi nó lái xe jeep của nó đi rồi thì tôi đáp chìa khóa xe cho Bổn.  Tiếng bom đạn đã ngừng hẳn, và khi nó lái chiếc Citroen về chung cư, vẫn lầu bầu rủa xả mấy chàng thủy quân lục chiến.  Tôi giữ im lặng.  Thủy quân lục chiến đâu cần phải lịch sự, chỉ cần   
có bản năng bén nhạy khi đối diện với những vấn đề sinh tử.  Còn gọi tôi là con hoang thì tôi không bực mình bằng phản ứng của chính mình.  Đến ngần tuổi này lý ra phải quen rồi chứ, nhưng tôi vẫn chưa quen.  Mẹ tôi là người bản xứ, cha tôi ngoại quốc, và người quen cũng như kẻ lạ khoái nhắc nhở tôi điều này từ hồi tôi còn bé, nhổ nước bọt vào mặt gọi tôi là con hoang, nhưng thỉnh thoảng gọi tôi là con hoang trước nhi nhổ nước bọt.