Friday, May 20, 2016

Babylon Sister

Babylon Sister

A STORY



Chao đảo một tí trên chiếc ghế cao trong khi nàng nhâm nhi ly whít-ki thứ tư, Sơ Rita Donovan nhìn đắm đuối sang phía bên kia của quán rượu chật ních, ngưỡng mộ một cách kín đáo (hy vọng vậy) Jon Carleton, người văn sĩ Ăng Lê chuyên viết truyện trinh thám: một người đàn ông cao ráo đẹp trai đeo kính, và có tướng hơi đĩ.  Chàng đứng giữa một vòng vây của những người ái mộ, gần băng ghế bọc da và những bàn gỗ sồi màu đậm, thân hình được đóng khung một cách khéo léo giữa hai cái đèn Tiffany cổ điển, tay bắt mặt toe toét giữa máy ảnh chớp loè--đúng là dân chuyên nghiệp, nàng nghĩ thầm, cảm phục sự khôn khéo và lôi cuốn không mệt mỏi của chàng.
Lúc nẫy, hai người đã nói chuyện, chuyệm phiếm hành lang lúc nhàn rỗi.  Nàng thấy mình sao như một cô nữ sinh, chết điếng dưới ánh mắt của chàng.  Bây giờ, từ một nơi ấm áp nhưng âm u trong đáy lòng, một tiếng thở dài khát khao góp lại, luồng khí nóng dâng lên như quả bong bóng căng đầy xúc cảm.
Ồ̀, ta sẽ sẵn lòng xưng những tội ngọt ngào thơm phức, một cái giọng khó ưa nhưng quen thuộc trong đầu nàng vọng lên.  Nếu, nếu, nếu…
Im đi, nàng thầm nghĩ, chỉ sợ nhỡ mình nói ra khỏi miệng.
Đó là Mayhem by the Bay, một tụ hội ở San Francisco của những người mê tiểu thuyết trinh thám--những văn sĩ, nhà xuất bản, giới buôn sách, độc giả hâm mộ--và bây giờ là sáu giờ, cái giờ mà mọi người chui vào quán rượu.  
Người ta từ những nơi xa xôi như Copenhagen và Perth về tham dự, toàn là người giỏi giang, có kiến thức bách khoa và có thể dẫn chứng vanh vách tên sách tên tác giả, lắm khi trích dẫn cả đoạn từ cuốn sách-tuyệt vời nhất - phải-đọc-qua-một-lần-cho-biết.  
Rita nghe chuyện riết mà bắt mệt, cả ngày cứ phải gật gà gật gù, nụ cười như dán lên mặt
Dĩ nhiên cũng có vài con mọt sách, tối ngày ru rú trong nhà, một năm mới dám ra ngoài một lần--rụt rè tới mức bất động, đứng chập chờn sau hậu trường cho đến khi bất chợt đánh bạo, chui ra khỏi vỏ kén nặc danh, rồi chặn một người trông không đến nỗi đáng sợ--như Rita chẳng hạn--và bám chặt lấy như những con con hàu biển bám vào đá.
Nhắc đến mới nhớ, tiếng nói lại vang lên trong đầu, đừng quên hai cái mợ lắm mồm.
Rita uể oải nhìn sang bên cạnh.  Hai bà phước Phan-Xi-Cô đang nói chuyện với nàng.  Cả hai đều có bụng như vịt bầu nhưng đầu óc như búa khoan, và đều mê truyện trinh thám.   Một bà nhấm nháp sôđa gừng, còn bà kia thì nốc bia ừng ực.  
Đúng là số con rệp nên mới mắc kẹt giữa hai người đáng lẽ chỉ nên gặp ở những buổi tĩnh tâm.  Tuy rất dễ thương nhưng họ nói ào ào như sấm sét làm nàng chỉ muốn họ cút đi chỗ khác chơi cho rồi.      
“ Nhưng mặt khác, có người nói sách của chị là thoái thân của truyện Cha Brown.”  Bà tóc muối tiêu uống sôđa gừng nói-- tóc lọn xoắn như ruột gà và đôi mắt ti hí trên một khuôn mặt đầy đặn.  
“ Và Cha Dowling.”
“ Chỉ có giỏi nói nhảm,” bà kia sủa.  Bà là một phụ nữ Celtic có thân hình đẫy đà-- típ người rường cột của giáo hội-- tóc cắt ngắn và mặt đầy tàn nhang.  “ Cha Dowling và Cha Brown không khác mặt trăng mặt trời.”  Bà nốc cạn ly bia và bật miệng ợ hơi.  “ Ralph McInerny, xin chúa ban phước lành cho ông, là một ông thánh.  Còn Chesterton? Một kẻ đạo đức giả, một thằng bài xích Do Thái.  Lại còn thích trò bạo dâm.”
“ Ối dào.  Người ta có một nói mười,” bà kia nói.
“ Phải rồi, tại mấy người Do Thái quá nhạy cảm.”
“  Ý tôi nói---” tiếng thở dài phát ra từ đáy bụng, “ còn cái nữa, đó là C. S. Lewis chứ không phải Chesterton.”
“ Đúng thế.  Kẻ đét đít Narnia.”
“ Trở lại với Rita.”   Bà kia dùng kiếng để trỏ như sợ có người không biết Rita là ai.  “ Tôi chỉ muốn nói là, có người trong buổi hội nghị cho là Sơ Killian--nhân vật chính của Rita--làm họ nghĩ đến Sơ Steve của Cha Dowling.”
Bà tóc đỏ nhướng một bên lông mày.  “ Bà đang nói về loạt phim TV chứ không phải cuốn sách.  McInerny chẳng có dính dáng gì đến cô ta.”
“ Tôi hiểu---”
“ Và chương trình TV thì thối như cứt.”
“ Ấy, sao lại dùng ngôn ngữ như vậy--”
“ Cứt trong rổ.”
“ Tôi chỉ muốn nói là có người nghĩ là Rita---”
“ Thôi đừng chỉ trích nữa.” Một cái ợ nữa, lần này to như bò rống.  “ Chị ấy là người thắng giải.”
Ừ, phải rồi, Rita tự nhắc nhở.  Mình đã thắng.  Phần thưởng Giải Mayhem Truyện Hay Nhất nằm trên quầy rượu cho mọi người chiêm ngưỡng.  Mọi người nào?  Nàng nghĩ chua chát, liếc nhìn chung quanh.  Chẳng ai để ý ngoại trừ hai bà phước Phan-Xi-Cô.  Trong khi đó bức tượng nằm đó như một biểu tượng của sự phản cảm.  
Trông gai mắt như cái đầu teo của trường phái lập thể.
“ Tôi không muốn cãi nhau, tôi chỉ---”
“ Cho người ta một ít công trạng được không?”
Trong bóng mờ đê mê của cơn say, Rita thấy một bà tóc bạc, mắt nháy, tay cầm ly sôđa gừng, còn bà kia đang bốc một vốc pretzel từ cái đĩa trên quầy rượu.
Sơ Hột Mít và Sơ Heo Nái.
Đừng có ác vậy, nàng thầm trả lời tiếng nói trong đầu, hay nói đúng hơn, trả lời cái bóng tối sâu thăm thẳm trong hồn đã phát ra tiếng nói.


Giọng nói trong đầu xuất hiện khi nàng mười tám tuổi, chỉ một lần, một giây phút then chốt của cuộc đời.  Nàng tỉnh dậy trong phòng trọ Homewood với ba thằng con trai đang ngáy khò, không nhớ đã gặp lúc nào.  Căn phòng nồng nặc mùi rượu, và nàng thì không mảnh vải che thân.
Lần đó giọng nói chỉ nói, Mặc quần áo đi về nhà.
Ngày hôm sau, nàng cảm thấy tê liệt, không phải vì mặc cảm phạm tội mà vì sợ.  Làm sao có thể xin được tha thứ hay làm việc đền tội cho một cái tội không nhớ nổi? Làm sao sống cả đời như vậy được?
Sau khi đã tự vấn lương tâm một cách kỹ lưỡng và dứt khoát, hai ngày sau nàng đến gặp mẹ và tuyên bố mình được ơn gọi, và muốn đi tu dòng Tiểu Muội Ngôi Lời Nhập Thể (the Handmaidens of the Word Incarnate.)
Ann Marie Donovan nắm chặt tay con gái và vừa nói vừa khóc là bà là người mẹ hạnh phúc nhất đời.
Bà lúc nào cũng là trụ cột của gia đình.  Bà đã trở thành góa phụ ở cái tuổi ba-mươi-ba khi chồng bị tai nạn xe cộ do đường đóng băng trên chiếc cầu Julien Dubuque,Illinois.  Bà đã ở vậy một mình nuôi ba đứa con gái, Rita và hai người chị.  Tôn giáo là nền tảng vững vàng cho cuộc đời bà: lễ sáng, kinh tối, thứ Sáu tuần cửu nhật, ban phụng vụ, hội lần tràng hạt, và làm bánh cho bingo.
Khi nào thấy có phim phù hợp đạo đức công giáo thì bà lùa mấy đứa vào phòng TV, bày bắp rang và kem sô đa cho ba chị em ăn, rồi cả bốn mẹ con trùm chăn ngồi sôfa nhìn màn ảnh chiếu lập loè những phim như: Thầy Giòng Phong Lan, Tiếng Tơ Đồng, Con Đường Anh Đi, Quo Vadis, cả phim Tôi Thú Tội của Hitchcock.  
Lắm khi nàng đổ thừa tại hồi bé mê phim Có Trời Biết Được, ông Allison ạ nên mới có cái khao khát tình dục đầy phiền toái này.  Nàng nghĩ nếu mình đẹp bằng nửa bà sơ Deborah Kerr thì có suốt đời ái mộ Robert Mitchum cũng chẳng sao.  
Mẹ nàng tham dự không thiếu một lễ nào trong khi Rita trèo nấc thang linh hồn từ là thỉnh sinh đến giai đoạn khấn tạm rồi cuối cùng, khấn trọn, lúc nào cũng rạng rỡ lòng biết ơn và hy vọng.
Rồi sau suốt một đời sùng đạo và hy sinh, mẹ nàng bị bênh ung thư tuyến giáp trạng thời kỳ cuối ở cái tuổi năm-mươi-hai.  Khi phát hiện bệnh thì ung thư đã lây lan sang tới cổ họng và phổi.  Trong những tháng cuối đời bà đã phải thở qua ống nối khí quản qua lỗ cắt trên cổ.  
Mỗi khi có dịp là Rita trở về Dubuque để giúp chị chăm sóc cho người mà các con xem là đại biểu cho ý niệm thánh, mỗi lần thăm đau lòng hơn lần trước.  Lúc cuối đời, mẹ nàng đã hóa cuồng vì hóa trị và morphine, đi lang thang trong hoang tưởng dọc hành lang bệnh viện, đến tối là sợ hãi, không phân biệt ai là con ai là y tá, để rồi cuối cùng cái chết đã đem lại yên ổn.  Cho mọi người.
Bà Mastronardi, một người đàn bà trong giáo xứ, tuyên bố trong một lần vào thăm, là Thiên Chúa đã đội mão gai vẻ vang của khổ đau cho mẹ nàng, không khác làm với con một của mình và như đã in dấu thánh trên người các thánh Phan-Xi-Cô Assisi và Catherine de Ricci.
Rita đã phải cố gắng lắm mới không giáng cho con mụ già này một cái bạt tai ngay giữa khu bệnh ung thư.
Đó là lúc giọng nói trong đầu trở lại.  Nó nói, Lấy an ủi trong nỗi khổ đau của một người đàn bà sắp chết hả? Lại đây, để ta tìm chút an ủi trong cái khổ đau của mi.
Giọng nói trong đầu bắt đầu nói chuyện thường xuyên hơn với nàng sau đó.  Nó có vẻ khác với lần đầu hai mươi năm trước đây.  Mà nghe ra thì không thấy giống giọng của mẹ, nên nàng không cảm thấy bị ám ảnh.  Bị quấy rầy thì đúng hơn.  
Thiên thần bản mệnh? Không phải.  Lương tâm? Cũng không luôn.  Đôi khi nàng nghe thấy như giọng Tracey Ullman nhái giọng Maggie Smith sau khi đã uống rượu gin xỉn xỉn.   
Trong khi đó, ánh sáng trong tâm hồn từ từ tối dần.  Nàng tìm mọi cách để nhen nhúm lại, bằng những lời cầu nguyện khẩn khoản, những nghi thức tôn sùng, bằng cách xin vâng lời lại bề trên.  Nàng hy vọng sẽ có một ngày rồi đức tin sẽ trở lại.  Nhưng hy vọng ngày một phai nhạt dần.   Và bây giờ thì sao?

Nàng tuột đít khỏi cái ghế cạnh quầy rượu và lấy lại thăng bằng, loạng choạng bước đi trong đôi giày đế thấp.  
“ Xin lỗi các sơ,” nàng lầm bầm, giọng thoáng chút lè nhè. “ Ngồi lâu quá rồi.”
Hai bà phước béo trao đổi nhau ánh nhìn gay gắt.  Rita nhấc cái tượng vừa xấu vừa nặng trên quầy rượu xuống một cách khó nhọc.  Trong bàn tay nhỏ bé của nàng, trông nó giống như một vũ khí giết người.
Tai nạn bi thảm giáng xuống đầu hai bà phước Phan-Xi-Cô vừa mập vừa lắm lời …
Rita mỉm nụ cười chào rồi đi chuếnh choáng ra khỏi nhà hàng nhộn nhịp mà cảm thấy tia nhìn lên án của hai bà sơ đốt cháy xém lưng như lưỡi lửa liếm láp.
Khi nàng đến gần đám đông đang vây quanh Jon Carleton thì bỗng thấy phản ảnh của mình trong tấm gương khách sảnh: váy màu xám tro dài đến chân, áo khoác giản dị màu trắng có cổ kiểu Peter Pan, áo len cardigan màu xanh da trời.  Duy chỉ có thánh giá đeo ở cổ, treo trên một sợi giây chuyền vàng mỏng dính, cho thấy nàng là bà sơ.  Tóc xõa ngang vai màu cát vàng, lọn tóc lòa xòa ngang lông mày.  Đôi mắt u sầu trên một khuôn mặt dài, mũi cao, tàn nhang như paprika, cặp môi mỏng.
Xinh xắn kiểu tẻ nhạt, nàng nghĩ thầm, hay tẻ nhạt nhưng xinh xắn-- chính là tôi đấy.
Mày thì chỉ muốn ỏng ẹo với hắn thôi, con ranh con thối tha.
Như thể nghe được ý nghĩ của nàng, nhà văn sĩ người Ăng Lê bất chợt ngẩng lên và nở một nụ cười chào đón.  Đám đông nhìn theo ánh mắt của chàng, rồi quay lại cùng một lúc.  
Bỗng nhiên tất cả những cặp mắt đổ dồn về hướng nàng.  Nàng nắm chặt cái tượng cục mịch và hơi lảo đảo một chút.
Bỏ mẹ rồi, mày xỉn quắc cần câu rồi.
“ Chúc mừng, chúc mừng,” Jon Carleton nhoài người, chìa tay ra bắt.  Nàng chuyển cái tượng sang tay trái, ôm lấy vào người, để đưa tay phải ra.  Cái bắt tay nuốt trọn và ấm áp, làm tim nàng tan chảy.
Chàng nói, “ Cô chắc phải hài lòng lắm.”
Đám đông lập tức phụ họa với những lời chúc tụng vui mừng và rộng lượng khiến nàng xấu hổ đã có ý nghĩ không đẹp về những con mọt sách cà lăm lúc nãy.  Tại sao mình lại đánh giá người ta quá nghiêm khắc như vậy, nàng nghĩ, trong khi bắt những bàn tay mềm mại của họ. Cái gì đã làm mình nhỏ mọn và khiếm nhã vậy?
Thì mày không vui.  Và, quan trọng hơn cả, đạo đức giả.
Không, nàng nghĩ, phản kháng lại.  Không vui thì phải rồi, nhưng cái này không dính dáng gì tới cuộc đời tận hiến hay đức tin của mình.  Tôi có đủ lý do để thất vọng hôm nay.  Nàng đã cầu mong cuốn sách sẽ bán chạy để giúp nhà dòng qua cơn khủng hoảng tài chánh, nhưng sự việc đã không xảy ra như ý muốn.  Sách chỉ bán được lèo tèo, và nhà xuất bản tỏ vẻ không thiết tha xúc tiến như đã đồng ý trước đây.
Đợt sóng chúc mừng của độc giả ái mộ Jon Carleton cuối cùng cũng dịu xuống, và Rita lại cám ơn mọi người, và tỏ vẻ biết ơn đặc biệt với nhà văn Ăng Lê đẹp trai vì thái độ lịch sự của chàng.  
Nàng đi về phía thang máy, nơi nàng đứng đợi trong khi khúc tấu nhạc kèn của Haydn phát ra từ một cái loa trên cao.  
Cánh cửa bằng đồng nặng nề xịch mở và nàng đi vào, bấm số tầng của mình.  Một cơn mệt mỏi nặng nề cuốn qua người nàng, đượm màu chán nản.  
Cánh cửa bóng láng sắp đóng lại thì một bàn tay đàn ông thọc vào làm khựng lại.  Cánh cửa rung chuyển, tiếng kim loại kêu lách cách.
“ Tôi có thể đi thang máy chung được không?”
Cánh cửa vừa đóng thì chàng quay lại nhìn nàng với cái vẻ je ne sais quoi làm rụng rời cả đầu gối.
“ Một buổi ra mắt đầy ấn tượng,” chàng nói, hất hàm về hướng cái tượng thô kệch.  “ Và giờ thì cô có cái đó làm bằng chứng.”
Rita cảm thấy mặt nóng bừng lên.  Chỉ có hai người.  Gần sát nhau.  Nàng không biết chàng có ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở, rịn ra các lỗ chân lông của nàng không.
Đừng có mà dớ dẩn.  Nó là Ăng Lê chứ đâu phải là chó săn đánh hơi đâu.
Bảng chỉ số tầng kêu tiếng chuông, cửa mở ra.  Họ đã tới tầng của nàng.
Bước sang một bên để giữ cánh cửa, chàng nói.  “ Quên không nói, chương trình ăn tối của tôi có vẻ chổng vú rồi, xin lỗi thổ ngữ hơi thô bỉ.”  Nụ cười có nét tinh nghịch.  “ Chắc lại phải về phòng, bật TV rồi gọi bồi mang thức ăn lên.  Mà gọi phần cho hai người cũng dễ thôi, nếu cô đồng ý ăn cùng.”  Mắt chàng chạm ánh mắt nàng.  “ Tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh.”


Sáu tiếng đồng hồ sau, gần lúc nửa đêm, họ nói chuyện qua cánh cửa phòng tắm khóa chặt.  Rita đứng bên trong, cái sàn gạch làm lạnh bàn chân đeo stocking.  Nàng cảm thấy đôi chút an ủi là mình vẫn mặc nguyên quần áo.
Jon Carleton thở dài.  “ Phải chi cô mở cửa phòng tắm ra đi.  Tôi cảm thấy hối hận quá.”
“ Tôi xin lỗi.” Rita nói rất thực tình.  Áp mặt vào cánh cửa màu trắng nhẵn nhụi, nàng nói thêm.  
“ Lỗi tại tôi chứ không phải tại ông.”
“ Thật tình đó là một đụng chạm rất con người, không có ý gì khác.”
Với tôi thì không vậy, Rita nghĩ.  Ý tôi nói, với anh thì không phải vậy.  Và tôi nữa.  “ Tôi hiểu--”
“ Thật mà, tôi cảm thấy mình thật là bất lịch sự.  Mình đối diện nói chuyện được không?”
Đối diện thì làm sao chịu nổi.
“ Để cho tôi yên.”
“ Cô nói sao?”
“ Không, tôi không nói với ông.  Ông cảm phiền đợi một tí nhé?”
Trước mười một giờ thì buổi tối đã diễn một cách êm thắm.  Khi chàng vừa mở cửa phòng khách sạn cho vào thì nàng mừng là chàng mướn một cái suite với phòng ngủ có cửa đóng kín đáo.
Khá hơn cái nhà trọ Homewood khi xưa nhỉ?
Căn phòng khách trưng bày lịch sự, nhìn xuống công trường Union Square đèn đuốc thắp sáng trưng cho đám đông đi chơi khuya.  Mới là tháng Giêng nên hàng bán hậu giáng Sinh vẫn còn khách tìm mua của hời.  Mưa nhỏ những giọt lạnh giá xuống làm ướt đẫm đèn hàng hiên cửa tiệm.  Xe cáp chạy leng keng lên xuống đường Powell.
“ Hy vọng lớn cuối cùng của nền văn minh phương Tây,” ông nói diễu, đứng sát bên nàng, cạnh cửa sổ.  “ Mua sắm.”
Nàng từ chối ly rượu khai vị, hy vọng còn tỉnh táo cho đến khi thức ăn giúp nàng từ từ tỉnh rượu.  Chàng nhún vai cười trong khi rót cho mình một cốc rượu rum Barbados cất lâu đời từ cái bình rót.
Họ bắt đầu trò chuyện, không như hai người lạ phải dọ dẫm làm quen.  Họ là đồng nghiệp, hai người cùng chí hướng, hai văn sĩ (nàng dám nghĩ vậy) trao đổi tư tưởng về văn học và cái đẹp.  
Họ nói chuyện opera và film noir, Mark Twain và Aristophanes và Kurt Weill.  Họ chuyển sang đề tài thần tượng thời niên thiếu, nàng thú thật mê Chesterton, còn chàng, Graham Greene.
“ Cả hai đều là người Công Giáo,” chàng nói. “ Thật là trùng hợp.”
Họ ăn tối lúc tám giờ rưỡi--nàng, cá chẽm rán giòn ăn với rau và salsa; chàng, thịt cừu ướp rượu porto ăn với khoai lang rô-ti.  Họ uống sâm banh Billecart-Salmon, cuvée 1996 và nói chuyện hết đề tài này đến đề tài kia đến khi chóng cả mặt và đôi khi quên béng mình đang tranh luận về cái gì.  
Nàng cảm thấy ngất ngây như bay lên chín tầng mây.
Có lẽ nàng đã hơi liều lĩnh khi đồng ý uống sâm banh, nhưng chàng muốn ăn mừng cái mà chàng gọi là sự thành công của nàng, và nàng không nỡ (hay không đủ can đảm) để nói sự thật là cuốn sách không được như mong muốn.  Hơn nữa những bọt màu hồng dễ tan đã làm nàng vui lên.  Và nàng đã buông lỏng.
Hai tiếng đồng hồ sau (và một chai Billecart-Salmon nữa, đem lại bởi một người bồi phòng kín đáo, khôn khéo), họ ăn hết món tráng miệng gồm bánh ba-loại-sữa và biscotti sô-cô-la, rồi Rita thả phịch người xuống ghế sô fa, tháo giầy ra và ngồi quặt chân dưới mông, một tư thế đầy nữ tính, và có thể khêu gợi một cách không cần thiết.
Đĩ thõa thì nói mẹ nó ra là đĩ thõa.
Nếu có thấy thì chàng cũng không để lộ ra bên ngoài.  Chàng vẫn tiếp tục thảo luận, ngồi bên cạnh, thỉnh thoảng choàng người qua để châm rượu vào ly sáo pha lê của nàng, mắt lúc nào cũng dán chặt mắt nàng.
Cách chàng làm, phải nói là khéo, chàng đặt nhẹ tay lên tay nàng khi đồng ý một luận chứng--
một điều gì có dính dáng với Flannery O’Connor, một người công giáo nhiều dằn vặt khác--nhưng rồi bàn tay vẫn nằm ở lại.  
Thật ra nàng có tận hưởng cảm giác đụng chạm của da thịt.  Khấn hứa giữ mình trong sạch không có nghĩa phải từ bỏ tình cảm nhẹ nhàng.
Không khác đa số các bà sơ dưới bốn mươi tuổn ở nước Mỹ, nàng đã không còn ngây thơ trong trắng khi bước chân vào nhà dòng.   Mặc dù những phiêu lưu, không kể việc xẩy ra với mấy thằng con trai trong phòng trọ đêm hôm đó, khó có thể gọi được là đời sống tình dục.  Nhưng ngay trong giây phút này, cái ấm áp giản dị của bàn tay chàng, gói trọn tay nàng, làm người nàng nóng hừng hực.  Nàng cảm thấy là, nếu chàng muốn, có thể bằng một cách nào đó làm nàng biết mất.
Chàng từ từ rút tay lại, rồi dịu dàng cầm bàn chân đeo stocking của nàng như đang vuốt ve một con chim bị thương. Khi chàng ấn ngón cái vào gan bàn chân với một áp lực điệu nghệ, thì toàn bộ hệ thống cơ bắp trong người nàng bỗng dưng doãi thẳng tuột.
Khi hoàn hồn thì nàng thấy chàng đang nhào bóp hai bàn chân đặt trên đùi chàng như một ông thợ làm bánh điên khùng, miệng nói lảm nhảm về người hùng hiện sinh và nhân vật hư cấu Continental Op, cho đến khi bầu máu sôi sục làm đầu nàng nhức như búa bổ và mắt hoa, nhìn thấy căn phòng bắt đầu nhảy múa và ánh sáng mờ mờ ảo ảo.
“ Xin lỗi một chút,” nàng thì thầm, tự gỡ người ra và chạy ù vào phòng tắm rồi khóa trái cánh cửa lại.  Mười lăm phút sau, cánh cửa vẫn đóng, người bên trong, kẻ bên ngoài.
Nàng vả nước vào mặt rồi liếc nhìn bóng mình trong gương mà khiếp đảm.  Có một điều mà không ai nói, nàng nghĩ, là tội lỗi đưa mình trở đi trở lại một nơi chốn ghê tởm, lặp đi lặp lại nhiều lần, một tiền thân của sự đời đời trong địa ngục.
Và giờ này nàng đang ở nơi đây, một lần nữa, như cách đây gần hai mươi năm, say túy lúy, cùng căn phòng với một người đàn ông-- lần này chỉ có một người, như vậy có phải là tiến bộ không? Phận làm con đã không xong, viết văn cũng thất bại, giờ chỉ còn đời sống tu hành mà cũng không thành hay sao?
Nàng lấy khăn lau khô tay và mặt rồi cuối cùng thu hết can đảm để mở khóa cửa phòng tắm và đi ra.
“ Tôi cảm thấy mình điên khùng quá.”  Nàng đi ra sô fa, sỏ chân vào giày, và hít một hơi chậm và dài.
“ Tha lỗi cho tôi nếu điều tôi nói có hơi đi vào đời tư.”  Chàng tiến về hướng nàng một cách thận trọng.  “ Nhưng nếu lời khấn hứa đòi hỏi cô phải có những xúc cảm quá độ như vậy chỉ vì ngồi gần với một người khác phái, thì phải chăng nó--tôi muốn nói đến vấn đề khiết tịnh--mới chính là vấn đề, chứ không phải là tôi hay cô?”
“ Tôi có nói ông là vấn đề hồi nào đâu,” nàng trả lời.
“ Hành động xem tình dục là xấu xa, tự nó cũng là một sự suy đồi, cô có đồng ý không?  Ta có những ông linh mục phải tự khóa tay mình mỗi khi có một đứa trẻ dưới tuổi mười ba đi ngang qua, vậy mà chẳng có một ông đội nón chóp bu nào nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, việc khấn nguyện trong sạch là một sự phản tự nhiên sao?  Không.  Để Vatican còn lo chuyện dẹp bỏ chốn luyện ngục.”
Nàng quay lại nhìn chàng.  “ Jon?”
“ Thật là hú vía.  Bây giờ thì Phật Tử và người theo đạo Do Thái Giáo có thể lên thiên đàng.  Nhưng họ lại không tin mới đau.”
“ Jon---”
“ Cô có thực tình nghĩ là mấy ông mục sư và giáo sĩ Do Thái bắt tay với quỉ sứ khi họ---”
“ Từ bỏ tình dục không có nghĩa là cấm tôi không được yêu.  Trái lại, nó cho tôi sự tự do để bày tỏ nhiều thứ tình yêu khác nhau, với nhiều người khác nhau, bằng nhiều cách khác nhau.”
Chàng đứng thấp thỏm như có một chỗ ngứa không gãi được.  “ Tôi nói cái này, nếu có không phải xin cô bỏ qua, nhưng câu cô nói nghe có vẻ hơi thuộc lòng.  Và không được sốt sắng cho lắm thì phải.”
“ Cũng có thể.” Nàng bước một bước thận trọng về phía trước.  “ Nhưng tôi rất thành thật khi cám ơn ông đã đãi một bữa ăn thật ngon và một buổi tối nói chuyện thật là lý thú, và tôi xin chúc ông ngủ ngon.”



Khi nàng trở về phòng thì thấy tất cả ngăn nắp đâu ra đó nhờ công lao của người dọn phòng.  Căn phòng khách sạn đã do hội nghị đài thọ hết.  “ Để nhỡ bà cần có chỗ để sửa soạn,” họ nói một cách ngây thơ.
Một lúc sau khi cánh cửa khép lại kêu cái cạch, sự nặc danh vô cùng của căn phòng làm nàng có cảm tưởng như mình vừa lạc vào nhầm chỗ.  Đây đâu phải là phòng của mình.  Đây đâu phải là đời của mình.
Cái ảnh hưởng của sâm banh vẫn còn vương vấn, nhưng không phải tại vậy.  Nàng cảm thấy mọi vật đều mờ mịt, ngay cả xác thân của mình, như thể chính sự hiện hữu--cái mà Chesterton gọi là cái “ thần bí tối thiểu”--- cũng đang tan biến.
Khác hẳn với cảm giác chảy tan ấm áp khi chạm phải bàn tay Jon Carleton.  Cảm giác bây giờ hiểm ác và vô tình, như để nhắc nhở rằng cuộc đời chỉ là mộng huyễn, như có mà lại không, phù du như mây khói.
Nàng đã tìm ra một nghi thức để xua đuổi cái cảm giác rờn rợn của sự vô thường mà nàng cảm thấy mỗi khi một mình.  Và nàng thường hay vò võ sống một mình kể từ ngày mẹ mất.
Nàng mở ngăn kéo bàn phấn, lấy ra những thứ ăn cắp ở tiệm thuốc tây hồi sớm ngày, sau một cuộc họp đầy thất vọng với nhà xuất bản.
Lũ học trò hay khoe là ăn cắp dễ òm, tưởng là nàng sẽ bị sốc, nhưng chúng đâu biết là hồi bằng tuổi chúng nàng cũng từng đi ăn cắp như ranh.
Hồi đó Rita với Molly Napolitano và Jan Smulski có hỗn danh là Ba Con Trời Đánh.  Học xong là chúng lang thang xuống phố Dubuque, nhất là những con hẻm phong sương từ St Patrick’s đến Công Trường Cable Car, chơi bàn tay trắng bàn tay đen xem đứa nào có nhiệm vụ đánh lạc hướng, đứa nào đứng canh chừng, và đứa nào ăn cắp.
Rita chỉ thích làm đứa ăn cắp vì đã ghiền cái cảm giác hồi hộp đánh trống ngực khi mắt nhìn thấy cái muốn chôm chỉa.
Thoạt tiên, chúng ăn cắp kẹo và gum, kế tới là tạp chí hay thuốc lá, để rồi chuyển sang phấn son khi bắt đầu biết thích con trai.  Cả ba đứa, không đứa nào đẹp cả, và đều được dán cái nhãn hiệu sỉ nhục tối đa là lesbo, tức là đồng tính nữ.  Thế là chúng có cái thái độ: Đã thế thì bà cho mày biết.  
Chiến lợi phẩm trên tay, chúng chạy cà nhỏng trên đường Iowa tới công viên Madison, rồi ngồi hút thuốc lá bạc hà và dạy nhau những mánh khoé làm đẹp, màu nào hợp loại da nào, những điều học lóm của mẹ hay chị.
Cuộc đời kể cũng lắm cái tức cười.  Molly kiếm được việc làm với hãng bảo hiểm Allstate và dọn về Sioux City, nơi nó trải qua hai cuộc hôn nhân và cuối cùng cố quên tiếc nuối bằng cách đeo đuổi danh hiệu vô địch bài bridge.  Jan lên học đại học ở Madison và cặp với một nữ giáo sư, mặc nhiên xác nhận những gì người ta ngờ vực trước đây là đúng, và từ đó đến giờ chưa hề trở lại Dubuque.
Rita, dĩ nhiên, đã đi theo tiếng gọi của Chúa, kẻ thành công nhất trong nhóm.  Ai cũng nói vậy.  Nhưng người ta biết gì mấy chuyện ấy? Làm sao có thể nhìn một người, cho dù đã biết từ thuở bé, và có thể cân được nỗi đau hay dò sâu được những thầm kín của họ?
Nặng mặt sa mày như vậy đủ rồi.  
Nàng thoa phấn lên mặt, tận hưởng cái cảm giác mềm mại của bông phấn mơn trớn trên da mặt mình.
Sau khi điểm chút phấn hồng trên má, nàng dùng bút kẻ mắt và chuốt mascara lên lông mi.  Cuối cùng thì nàng thoa một lớp son màu có tên Anh Đào trong Tuyết.
Dần dần khuôn mặt trước giản dị, bắt đầu ra dáng, chỗ nổi chỗ mờ, đôi mắt nhạt màu bắt đầu mang vẻ khát khao, cặp môi mỏng mảnh trở thành gợi cảm và bạo dạn.
Nàng ngồi ngắm minh trong gương và nghĩ: một bộ mặt chỉ có Chúa được thấy.  Nếu Ngài thèm ghé mắt.
Nàng không để ý thấy lá thư nằm dưới kẽ cửa cho đến khi bật đèn lối vào.  Phong bì và một tờ giấy nhét bên trong là văn phòng phẩm của khách sạn.  

Rita thân mến,
Khi mình nói chuyện tối nay, cô có nói rằng nhà dòng của cô rất cần tiền.  Những sơ có tuổi, mà cô rõ ràng quí mến, cần nhiều chăm sóc y tế, trong khi giáo phận lại kẹt tiền vì những vụ kiện tụng dính dáng đến chuyện sách nhiễu tình dục.  Vì là một trong vài sơ trẻ trong dòng nên cô cảm thấy có trách nhiệm đặc biệt.  Đó là lý do tại sao cô viết cuốn sách--cuốn sách mà tôi đã đọc đi đọc lại hai lần và thấy hay tuyệt.  Đừng nghi ngờ.  Lời khen của tôi hoàn toàn thành thật.
May sao tôi có khả năng để giúp được.  Đây là điều tôi đề nghị:  Tôi sẽ quảng cáo cho cuốn truyện của cô mỗi khi được phỏng vấn, trong những bài viết của tôi, trong mỗi lần xuất hiện trước công chúng.  Tôi sẽ làm hết sức để độc giả biết đến tên cô và cho đến khi nào nhà xuất bản nhận thức được bảo vật họ đang có trong tay.  Tôi cũng có cái may mắn là mình có khả năng làm chuyện rõ ràng là viết một tấm ngân phiếu rộng rãi.
Xin cô hiểu cho, tất cả những cái này không hề dính dáng đến mặc cảm phạm tội.  Tôi không tin là chúng mình đã làm cái gì sai quấy.  Tôi tình nguyện để giúp chỉ vì ngưỡng mộ và quí mến cô thôi.
Tôi hy vọng là cô chấp nhận.  Bằng không thì ráng chịu.
Chúc cô may mắn,
Jon

Sáng hôm sau, nàng vẫn nằm không ngủ, nhìn tờ giấy gấp đôi nằm trên bàn ngủ.  Và như điệp khúc của một bản nhạc cứ mãi vương vấn trong đầu, một câu nói cửa miệng của mẹ--câu nói mà mẹ thích nhất, cho đến chết-- lập đi lập lại trong mớ ý tưởng hỗn độn trong đầu nàng.

Chỉ có kẻ hèn nhát mới cứng lòng không tin vào phép lạ.







 






   



No comments:

Post a Comment