Monday, May 9, 2016

TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT





Người ta tin rằng Nữ thư--lối viết bằng mật mã dùng bởi đàn bà ở một vùng hẻo lánh của tỉnh Hồ Nam --đã được phát triển cách đây hàng ngàn năm.  Hình như đấy là loại chữ viết duy nhất trên thế giới tạo ra bởi phụ nữ để sử dụng riêng cho nhau



TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT
Lisa See

1-Tĩnh Tọa



Trong làng người ta hay gọi tôi, một góa phụ tám mươi tuổi, là “ bà già nằm kề miệng lỗ”.  Không có chồng, ngày tháng dài lê thê.  Tôi không thèm những thức ăn cầu kỳ mà Mẫu Đơn và những kẻ khác làm cho tôi.  Tôi cũng chẳng mong hội hè đình đám.  Giờ thì chỉ còn nghĩ đến quá khứ.  Ngần này tuổi rồi, muốn nói gì là cứ nói, không phải giữ mồm giữ miệng như thuở còn sống nhờ vào gia đình nhà mình và gia đình nhà chồng.  Tôi còn cả đời để mà kể lể; chẳng có gì để sợ và chẳng còn ai để mất lòng.

Tôi đủ già để biết ưu và khuyết điểm của mình, lắm khi cũng là một.  Cả đời tôi chỉ thèm được yêu.  Vẫn biết là không phải--khi còn con gái cũng như sau khi lấy chồng--nhưng thèm thì vẫn cứ thèm, và chính sự khát khao vô lý này đã là căn nguyên của mọi vấn đề của của cuộc đời.  Tôi ao ước được mẹ để ý và rồi dần dà cả nhà yêu thương.  Tôi cố nghe lời để lấy lòng mọi người--cái đức quan trọng nhất của người con gái--nhưng ai nói gì thì tôi hơi quá sẵn sàng làm ngay.  Để có được một cử chỉ tử tế giản dị nhất, tôi đã cố đáp ứng kỳ vọng của họ, muốn tôi có bàn chân nhỏ nhất vùng, nên tôi ̣ành chịu bàn chân bóp gẫy để bó được đẹp hơn.

Khi không chịu nổi cơn đau, và nước mắt nhỏ ướt băng quấn đẫm máu, mẹ tôi nói nhỏ vào tai, dỗ dành cố thêm một tiếng, thêm một ngày, thêm một tuần, nhắc phần thưởng sẽ có nếu cố thêm một lúc.  Và đó là lối mẹ tôi dậy cách chịu đựng--không chỉ những đau đớn bó chân, những mang nặng đẻ đau mà còn cái đau nhức nhối của tim, óc, và linh hồn.  Bà còn nêu ra khuyết điểm của tôi và dậy cách dùng sao cho có lợi.  Ở xứ tôi, người mẹ như vậy gọi là ĐÔNG ÁI .  Con trai tôi nói ĐÔNG có nghĩa là ĐAU; ÁI là YÊU.  Đó là tình yêu của người mẹ.

Bó chân không chỉ thay đổi hình dạng bàn chân mà con ảnh hưởng đến cả tính tình, cái lạ là tôi cảm thấy như nó tiếp tục suốt cả cuộc đời, biến tôi từ một đứa trẻ nhu nhược thanh một thiếu nữ kiên quyết, từ một thiếu phụ tuân lời nhà chồng không thắc mắc thành một người đàn bà chức cao nhất vùng cai quản nghiêm nhặt luật lệ của làng.  Khi tôi bốn mươi tuổi thì cái cứng nhắc của bó chân đã từ đôi gót sen vàng chạy vào con tim, còn chôn chặt những bất công và thù hận sâu đến độ mất đi khả năng tha thứ những người tôi yêu và yêu tôi.  

Hình thức nổi dậy duy nhất của tôi là NỮ THƯ, chữ viết bí mật của đàn bà.  Lần phá lệ đầu tiên xảy ra khi Tuyết Hoa--LÃO ĐỒNG của tôi, “ CÙNG-XƯA” của tôi, người cộng sự viết mật thư của tôi--gởi tôi cái quạt nằm trên mặt bàn đây, rồi lại gởi nữa sau khi tôi đã gặp nàng.  Nhưng ngoài con người của tôi đối với Tuyết Hoa, tôi quyết tâm làm một người vợ chính chuyên, một con dâu ngoan ngoãn, và một người mẹ cẩn trọng.  Lúc khó khăn thì tim tôi cứng rắn như ngọc bích.  Tôi có sức mạnh tiềm tàng để chịu đựng thảm kịch cùng nỗi u sầu   Nhưng tôi ngồi đây---một góa phụ yên lặng theo đúng phong tục--và tôi biết là mình đã mù quáng bấy lâu nay.

Ngoại trừ ba tháng khủng khiếp năm thứ năm đời vua Hàm Phong, tôi chôn chặt đời mình trên căn gác đàn bà.  Có, tôi có đi chùa, có về thăm nơi chôn nhau cắt rốn, có đi thăm cả Tuyết Hoa nữa, nhưng tôi không biết tí gì về thế giới bên ngoài.  Tôi nghe đàn ông nói chuyện thuế khóa, hạn hán, và nổi dậy, nhưng những đề tài này chẳng dính dáng gì tới cuộc đời của tôi.  Tôi chỉ biết có thêu, dệt, nấu nướng, nhà chồng, con tôi, cháu tôi, chắt tôi, và NỮ THƯ.  Cuộc đời tôi là một cuộc đời bình thường--ngày cho con gái, ngày để cài tóc, ngày cho gạo muối, và giờ thì ngồi yên.   

Và giờ thì tôi ngồi một mình nơi đây với ý nghĩ và cái quạt trước mặt.  Khi tôi cầm nó lên, thấy nó nhẹ lạ lùng trong tay, vì nó đã ghi lại bao nhiêu là vui và bao nhiêu là buồn.  Tôi xoè quạt nhanh, và âm thanh mỗi nếp gấp khi mở ra gợi tôi nhớ đến một trái tim đang rung động.  Kỷ niệm nhạt nhoè nước mắt lưng tròng.  Bốn mươi năm qua tôi đã đọc nó nhiều lần đến độ ghi khắc trong lòng như một bài đồng dao.

Tôi nhớ ngày người trung gian đưa nó đến cho tôi.  Ngón tay tôi run rẩy khi xoè nan ra.  Lần đó một vòng bằng lá giản dị tô điểm cạnh trên và chỉ có một thông điệp chảy thành giòng xuống nếp gấp đầu.  Hồi ấy tôi không biết nhiều chữ NỮ THƯ, nên dì tôi đọc.  “ Tôi nghe nói có người con gái phẩm hạnh đoan chính mà lại còn giỏi nữ công sống trong nhà bạn.  Bạn và tôi sanh cùng năm, cùng ngày.  Bạn có muốn làm lão đồng với tôi không?”  Giờ tôi nhìn nét bút dịu dàng viết ra những hàng chữ và không chỉ thấy người con gái Tuyết Hoa mà còn người đàn bà nàng sẽ trở thành--kiên trì, thẳng thắn, ngoại hướng.

Mắt tôi nhìn lướt qua những nếp gấp khác và tôi thấy được sự lạc quan, niềm vui sướng, lòng quý mến lẫn nhau, và những lời ước thệ của chúng tôi.  Tôi thấy vòng lá mọci ra thành một bức họa tỉ mỉ của những hoa tuyết và bách hợp đan vào nhau tượng cho cuộc đời của một cặp LÃO ĐỒNG, cùng-xưa.  Tôi thấy ánh trăng rọi xuống từ góc phải trên cùng.  Chúng tôi sẽ như những cây leo dài, rễ bện vào nhau, như loài cây đứng sững ngàn năm, như một cặp vịt uyên ương bên nhau mãn đời.  Trong một nếp gấp, Tuyết Hoa viết, “ Quí nhau không bao giờ tách rời.”  Nhưng trong một nếp gấp khác tôi thấy được những hiểu lầm, niềm tin tan vỡ, và cái cửa đóng sập lại lần cuối.  Với tôi, tình yêu là một vật sở hữu quí đến độ không thể chia sẻ cho ai, và cuối cùng nó đã cắt tôi đứt khỏi người cùng-xưa duy nhất của tôi.

Tôi vẫn đang học hỏi về tình yêu.  Tôi tưởng tôi tôi đã hiểu--không chỉ tình mẹ mà còn tình yêu cha mẹ, yêu chồng, và tình lão đồng.  Tôi từng có những loại tình khác--tình thương hại, tình kính trọng, và tình biết ơn.  Nhưng nhìn vào cái quạt riêng tư với những thông điệp trao đổi giữa tôi và Tuyết Hoa  trong nhiều năm trời, tôi nhận ra mình không biết trân quí tình yêu quan trọng nhất--cái tình yêu chôn sâu trong con tim.

Trong những năm sau này tôi đã chép lại nhiều tự truyện cho những người đàn bà không biết nữ thư.  Tôi đã lắng nghe từng nỗi buồn và than phiền, từng bất công và thảm kịch.  Tôi đã ghi lại những cuộc đời khốn khổ của những kẻ có số phần hẩm hiu.  Tôi đã nghe hết và viết xuống
hết.  Nhưng nếu tôi biết nhiều về truyện đàn bà, thì lại chẳng biết gì về truyện đàn ông, ngoại trừ là nó thường dính dáng đến người nông gia đấu tranh với mùa màng, người quân nhân trong chiến trận, hay một người cô độc trên đường về nội tâm.  Nhìn lại cuộc đời của mình, tôi thấy lấy từ truyện của những người đàn ông và đàn bà.  Tôi là một người đàn bà thấp hèn với những than khóc tầm thường, nhưng lòng tôi cũng như một người đàn ông ra trận, đấu tranh giữa bản chất thực của mình và con người đáng lý tôi phải trở thành.

Tôi viết những giòng này cho những người đã khuất bóng.  Mẫu Đơn, đứa cháu dâu của tôi, đã hứa sẽ đốt đi khi tôi chết, để truyện của tôi đến tay họ trước khi hồi tôi đến.  Hãy để giòng chữ giải thích hành động của tôi với tổ tiên tôi, với chồng tôi, và hơn hết cả với Tuyết Hoa, trước khi tôi gặp lại họ.


2- Hoa niên


Tôi tên là Bách Hợp.  Tôi ra đời ngày năm tháng sáu năm thứ sáu đời vua Đạo Quang.  Phổ Oai, làng quê tôi, nằm trong tỉnh Vĩnh Minh, tỉnh của sự sáng chói vĩnh hằng.  Dân ở đây đa số người gốc Dao.  Hồi còn bé nghe người ta kể chuyện thì tôi được biết là người Dao đầu tiên đến một ngàn hai trăm năm trước đây vào thời nhà Đường, nhưng đa số đến một thế kỷ sau, khi chạy giặc Mông Cổ xâm lấn bắc phương.  Mặc dù dân miền tôi chưa bao giờ giàu có, nhưng chúng tôi hiếm khi nào nghèo đến độ mà đàn bà phải ra đồng làm việc.

Chúng tôi là người họ Nghĩa, một trong những chi tộc người Dao đầu tiên và đông nhất trong vùng.  Cha tôi và chú tôi thuê bảy mẫu ruộng của một địa chủ giàu có sống phía viễn tây châu quận.  Họ trồng lúa, bông gòn, khoai, và rau ráng.  Nhà ở của chúng tôi thuộc loại tiêu biểu có nghĩa là có hai tầng và quay mặt ra hướng nam.  Phòng trên lầu là nơi đàn bà tụ họp và là chỗ ngủ cho con gái chưa chồng.  Những gian phòng cho mỗi gia đình và một khu dành riêng cho gia súc nằm chung quanh gian chính dưới lầu, nơi mà những giỏ chất đầy trứng gà hay cam và những dây ớt khô treo lủng lẳng trên xà nhà để khỏi bị chuột, gà, hay lợn ăn.  Chúng tôi có một cái bàn với ghế nằm sát một bên tường.  Bếp lò nơi mẹ và thím nấu nướng nằm trong góc tường đối diện.  Gian giữa không có cửa sổ nên chúng tôi để cửa mở thông ra con hẻm bên ngoài cho thoáng thoát và sáng sủa trong những tháng ấm.  Những gian phòng còn lại nhỏ xíu, nền nhà bằng đất nện, và, như tôi nói, gia súc sống chung trong nhà.

Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện mình có vui sướng khi còn bé không.  Tôi là một con bé trung bình sống trong một gia đình trung bình trong một ngôi làng trung bình.  Tôi đâu biết là có thể có lối sống khác, và cũng chẳng thắc mắc.  Nhưng tôi nhớ hôm tôi bắt đầu để ý và suy nghĩ về những gì chung quanh.  Tôi vừa lên năm và cảm thấy như mình vừa bước qua một ngưỡng cửa quan trọng.  Tôi thức dậy lúc trời còn sáng tinh mơ với cảm giác như có gì ngứa ngáy trong đầu.  Cảm giác đó làm tôi cảnh giác với tất cả những điều thấy được và trải qua ngày hôm ấy.

Tôi nằm giữa chị Gái Lớn và con Bé Ba.  Tôi liếc nhìn bên kia phòng sang giường của cô em họ.  Diễm Nguyệt, bằng tuổi tôi, vẫn chưa thức dậy, nên tôi nằm yên đợi chừng nào hai người cựa quậy thì mới tính sau.  Tôi nhìn mặt chị Gái Lớn.  Chị hơn tôi bốn tuổi.  Mặc dù chúng tôi ngủ chung giường nhưng tôi không biết chị nhiều cho đến khi tôi bó chân và gia nhập phòng đàn bà.  Còn con Bé Ba thì tôi lúc nào cũng nghĩ nó nhỏ hơn một tuổi nên không đáng để bận tâm.  Tôi tưởng là chị và em tôi không thích tôi, nhưng đâu có biết là thái độ lạnh nhạt bên ngoài chỉ là một tấm mặt nạ để che dấu cái mơ ước thật sự trong lòng.  Đứa nào cũng muốn được Má Má để ý đến.  Đứa nào cũng giành được Bố lưu tâm.  Đứa nào cũng mong được gần gũi anh Cả, vì là con trai trưởng nên anh là nhân vật quan trọng nhất trong gia đình.  Tôi không cảm thấy ganh tị với Diễm Nguyệt.  Chúng tôi là bạn thân và mừng là đã có nhau cho đến ngày lấy chồng.

Bốn chị em chúng tôi trông rất giống nhau.  Đứa nào cũng tóc đen cắt ngắn, cao xấp xỉ gần bằng nhau, và rất gầy.  Ngoài ra, những đặc điểm để phân biệt không có mấy.  Chị Gái Lớn có một nốt ruồi trên môi.  Tóc con Bé Ba lúc nào cũng cột túm lên cao vì nó không muốn để cho Má Má chải.  Diễm Nguyệt có một khuôn mặt tròn xinh xắn, còn cặp giò của tôi thì rắn chắc vì chạy và cánh tay khoẻ mạnh vì phải bế thằng em trai.

“ Mấy con kia đâu!” Má Má gọi vọng lên gác.

Thế là đủ để đánh thức mọi người thức dậy.  Chị Gái Lớn mặc vội quần áo rồi đi xuống lầu.  Diễm Nguyệt và tôi chậm hơn, vì không chỉ mặc quần áo cho mình mà còn phải mặc quần áo cho con Bé Ba nữa.  Rồi tất cả chúng tôi cùng xuống nhà, Thím đang quét nhà, Chú đang hát một khúc ca bình minh, Má Má--lưng địu thằng Cu--đổ nốt nước sôi vào ấm trà cho nóng, và chị Gái Lớn băm hành cho vào nồi cháo mà chúng tôi gọi là mễ chúc.  Chị tôi ném cho tôi một cái nhìn thanh thản mà tôi hiểu là chị đã được gia đình phê chuẩn sáng nay và sẽ yên ổn cả ngày.  Tôi cố dấu lòng oán giận, không hiểu được cái tôi tưởng là vẻ tự mãn của chị thực ra chỉ là sự cam chịu miễn cưỡng mà chị sẽ mang theo sau khi lấy chồng.

“ Diễm Nguyệt! Bách Hợp! Lại đây! Lại đây!”

Mỗi sáng là thím tôi gọi tụi tôi ơi ới như vậy.  Chúng tôi chạy ùa tới dì.  Thím hôn Diễm Nguyệt và vỗ đít tôi một cách âu yếm.  Rồi Chú sà tới, ôm chặt Diễm Nguyệt vào lòng.  Sau khi chú đặt nó xuống thì quay lại nháy mắt và bẹo má tôi.

Bạn biết câu nói nồi nào úp vung nấy rồi chứ gì? Buổi sáng hôm đó tôi đi đến kết luận là Chú và Thím là hai người mặt mũi xấu xí cho nên hợp nhau.  Chú là em của bố tôi.  Chú có chân vòng kiềng, đầu hói rụi, và mặt tròn bóng láng.  Thím tướng người phốp pháp, răng nhọn hểu như đá nhô lởm chởm từ mấy cái hang đá vôi.  Chân thím tuy bó nhưng không được nhỏ nhắn mấy, khoảng mười bốn phân chiều dài, gấp đôi bàn chân tôi khi lớn.  Dân làng miệng lưỡi độc ác nói đó là lý do tại sao mà Thím--một người mông to, có tướng đẻ mắn--mà không đẻ được đứa con trai nào.  Tôi chưa bao giờ nghe một lời than phiền, quở trách trong nhà, ngay cả từ chú.  Tôi thấy họ có một cuộc hôn nhân lý tưởng; chú là một con chuột dễ thương và thím là một con trâu biết vâng lời.  Niềm hạnh phúc của họ tỏa lan ra khắp cả nhà.

Mẹ tôi chưa thừa nhận sự có mặt của tôi trong phòng.  Trước giờ bao giờ vẫn vậy, nhưng hôm ấy tôi cảm thấy được sự không để ý của mẹ.  Một nỗi buồn sâu lắng xuống trong tim tôi, dập tắt niềm vui vừa nhen nhúm với Chú Thím, sức mạnh của nó làm tôi choáng váng.  Rồi, nhanh như chớp, cảm giác ấy biến mất, vì Anh Cả, hơn tôi sáu tuổi, gọi nhờ tôi giúp việc vặt buổi sáng của anh ấy.  Tôi tuổi con ngựa nên thích sống ngoài trời, quan trọng hơn nữa tôi có được anh Cả cho riêng mình.  Tôi biết mình may mắn và chị em sẽ ganh tị, nhưng tôi chẳng quan tâm.  Khi anh nói chuyện hay cười với tôi thì tôi không còn cảm thấy vô hình.

Chúng tôi chạy ra ngoài.  Anh Cả kéo nước từ giếng lên rồi đổ đầy vào xô để mang vào nhà.  Sau đó chúng tôi đi nhặt củi.  Anh Cả cho tôi khiêng những thanh nhỏ, còn anh ôm hết đống còn lại đi về nhà.   Về tới nhà, tôi đưa hết cho mẹ, mong được một tiếng khen.  Nhưng Má Má không nói tiếng nào.  

Cho đến bây giờ, sau bao nhiêu năm trời, mỗi lần nhớ lại Má Má và điều tôi nhận thức ngày hôm ấy là lòng tôi thấy nao nao.  Tôi không có một giá trị nào đối với bà.  Tôi là đứa con thứ ba, một đứa con gái thứ hai vô dụng, không đáng để ý đến cho tới khi sống qua được tuổi hoa niên.  Mẹ nhìn tôi như tất cả các bà mẹ khác nhìn con gái --như một người khách phải nuôi tốn cơm tốn vải cho đến khi đi về nhà chồng.  Tôi mới lên năm, đủ trí khôn để biết mình không xứng đáng được để ý đến, nhưng vẫn ước ao.  Tôi thèm được mẹ nhìn mặt nói chuyện như với anh Cả.  Nhưng tôi biết mẹ không muốn bị quấy rầy trong lúc bận rộn, mẹ hay mắng khi tôi nói to và vẩy vẩy xua đi khi tôi lớ ngớ làm bà vướng chân vướng tay.  Và tôi cố bắt chước chị Gái Lớn, giúp mẹ một cách yên lặng và cẩn thận.

Bà nội đi khập khiễng vào phòng.  Mặt bà trông như quả táo tầu và lưng còng xuống nên mặt ngang tầm tôi.

“ Ra giúp bà đi,” Má Má ra lệnh.  “ Coi xem bà cần cái gì.”

Mặc dù tôi vừa tự hứa với lòng mình nhưng vẫn ngần ngại.  Sáng sớm nên lợi của bà còn dính nhớp nháp và hôi hám nên chẳng ai muốn đến gần.  Tôi nín hơi, nhích lại gần bà nhưng bà vẫy tay xua ra chỗ khác.  Tôi vội tránh ra nên lao sầm vào người bố tôi--người quan trọng nhất gia đình này.  

Ông không la rầy hay nói gì với ai.  Theo như tôi biết, ông chỉ bắt đầu nói chuyện khi một ngày đã xong xuôi.  Ông ngồi xuống chờ phục vụ.  Tôi nhìn không chớp mắt trong khi mẹ tôi lẳng lặng rót trà.  Bố tôi ít khi nào đánh mẹ tôi và không bao giờ lấy vợ lẻ, nhưng mẹ tôi vẫn cư xử rất cẩn trọng với bố tôi.

Thím xếp tô lên bàn và múc cháo ra trong khi Má Má cho con bú.  Sau khi ăn xong, cha tôi và chú tôi đi ra đồng, và mẹ tôi, thím, bà nội, và chị lớn lên lầu vào phòng đàn bà.  Tôi muốn đi theo nhưng chưa đủ tuổi.  Tệ hơn nữa, tôi phải chia xẻ anh Cả với thằng Cu và con bé Ba khi đi ra ngoài.

Tôi cõng thằng Cu trên lưng trong khi chúng tôi cắt cỏ và đào củ cho lợn ăn.  Con bé Ba cũng cố chập chững đi theo.  Nó là một con bé phá phách và ngộ nghĩnh.  Nó ra bộ nhõng nhẽo trong khi người đáng được nuông chiều là hai thằng con trai.  Nó tưởng nó được cưng nhất nhà trong khi chẳng có dấu hiệu nào cho thấy như vậy.  

Làm công chuyện nhà xong, bốn đứa chúng tôi đi lanh quanh trong làng cho đến khi gặp mấy đứa con gái đang nhảy dây.  Anh tôi đứng lại, bế thằng Cu để tôi có thể nhảy dây với tụi nó.  Rồi chúng tôi về nhà ăn --bữa ăn trưa giản dị, chỉ có cơm rau mà thôi.  Sau đó anh Cả đi theo mấy người đàn ông, và chúng tôi lên lầu.  Má Má lại cho thằng Cu bú, rồi cho nó và con bé Ba ngủ trưa.  Ngay cả khi còn bé, tôi đã thích ngồi trong phòng đàn bà với bà, thím, chị em và nhất là mẹ tôi.  Má Má và bà dệt vải, Diễm Nguyệt và tôi quấn chỉ, Thím ngồi với bút, mực, cẩn thận viết nữ thư, trong khi chị Gái Lớn đang ngồi đợi chị em kết nghĩa đến thăm.

Chẳng bao lâu thì chúng tôi nghe tiếng bốn cặp gót sen đi rón rén lên lầu.  Chị Gái Lớn ôm từng người chào hỏi, và rồi năm đứa chụm đầu vào trong góc phòng.  Họ không thích tôi xía vào, nhưng tôi vẫn theo dõi, vì biết rằng trong hai năm nữa tôi cũng sẽ có một nhóm chị em bạn gái kết nghĩa của riêng tôi.  Tất cả mấy đứa con gái đều từ làng Phổ Oai, có nghĩa là họ có thể gặp nhau thường xuyên, và không chỉ trong những ngày đặc biệt như ngày Đón Ngọn Gió Mát hay ngày Điểu Tiết.  Nhóm bạn gái bắt đầu khi con gái lên bảy.  Để làm bền vững mối liên hệ, cha mẹ của mỗi đứa phải đóng góp hai mươi lăm cân gạo, cất ở nhà tôi.  Sau này, khi đứa nào lấy chồng, phần gạo của đứa đó sẽ được đem đi bán để bạn gái mua quà.  Và tình bạn sẽ đương nhiên chấm dứt vì đa số sẽ lấy chồng xa, và sẽ đầu tắt mặt tối lo con cái và tuân lệnh mẹ chồng, làm gì còn thời giờ cho bạn cũ.

Ngay cả với bạn, chị Gái Lớn cũng không làm người ta để ý tới mình.  Chị ngồi yên lặng với bạn gái trong khi họ thêu thùa và nói chuyện tếu.  Khi tiếng cười đùa bắt đầy hơi to thì mẹ tôi nạt họ, và một ý tưởng khác nẩy ra trong đầu tôi:  Má Má không bao giờ dám làm vậy khi bạn kết nghĩa cuối đời của bà tôi đến chơi.  Sau khi con cái đã lớn khôn, bà tôi được mời gia nhập một nhóm năm chị em kết nghĩa mới ở Phổ Oai.  Chỉ còn hai người, cộng thêm bà tôi, tất cả đều đã goá bụa, là còn sống, và họ gặp nhau mỗi tuần.  Họ chọc nhau cười và kể những chuyện diễu tục  mà đám con gái chúng tôi không hiểu.

Má Má hết chỉ sợi nên đứng lên đi lấy thêm.  Bà đứng yên một hồi lâu, nhìn trầm ngâm vào khoảng không.  Tôi suýt không dằn được nỗi khát khao để chạy ào vào lòng mẹ để kêu lên, nhìn con, nhìn con, hãy nhìn con nè.  Nhưng tôi đã không làm vậy.  Chân mẹ tôi bị bó hư nên thay vì là gót sen, Má Má chỉ còn những mấu cục xấu xa.  Thay vì bước chân đi ẻo lả khi thì mẹ phải chống gậy mà đi.  Nếu mẹ tôi không chống gậy thì tay chân múa may loạng choạng mới giữ được thăng bằng.

“ Tới giờ con Diễm Nguyệt và Bách Hợp ra ngoài rồi phải không?”  Thím nói.  “ Chúng có thể giúp anh Cả làm việc nhà.”
“ Anh Cả không cần tụi nó giúp.”
“ Biết rồi,” Thím nói.  “ Nhưng hôm nay trời đẹp---”
“ Không,” Má Má nói một cách nghiêm khắc.  “ Tôi không thích con gái đi lang thang phá làng phá xóm.  Chúng còn phải ở nhà để học nữ công gia chánh.”
“ Chúng nó chỉ còn vài tháng nữa thôi,” Thím nài nỉ.  Thím không nói trắng ra là chẳng bao lâu nữa chân chúng tôi sẽ bị bó, xương sẽ gẫy, da sẽ thối rữa.  “ Giờ chúng còn chạy nhảy được thì mặc chúng nó.”
“ Thôi được rồi,” Má Má thở dài.  “ Cho chúng nó đi.”

Tôi nắm tay Diễm Nguyệt nhảy cỡn lên.  Thím đẩy chúng tôi ra khỏi cửa trước khi mẹ tôi có thể đổi ý trong khi chị Gái Lớn và mấy cô bạn gái nhìn theo một cách thèm thuồng.  Giấc xế chiều là lúc thích nhất của chúng tôi, khi khí trời ấm áp và thơm tho và ve sầu bắt đầu cất tiếng.  Chúng tôi chạy lon ton trong hẻm cho tới khi bắt kịp anh tôi đang mang trâu nhà xuống sông.  Anh cưỡi trên mình trâu, một chân móc dưới cổ trâu, chân kia đu đưa bên hông.  Chúng tôi đi hàng một theo sau, qua những lối đi khúc khuỷu như một mê cung để bảo vệ khỏi ma quỉ và trộm đạo.  Chúng tôi không thấy người lớn--đàn ông đi làm ruộng và đàn bà ở trong nhà-  nhưng con đường hẻm thì đầy trẻ con và gia súc: gà, vịt, lợn xề, lợn con kêu inh ỏi khắp nơi.  

Chúng tôi tách ra khỏi con đường chính và đi ngao du trên một lối đi cao hẹp có lót sỏi nhỏ.  Lối đi chỉ đủ cho người và kiệu đi nhưng quá nhỏ cho trâu bò hay xe ngựa.  Rồi chúng tôi đi tới giòng Tiêu Giang và dừng lại trước cái cầu khỉ đong đưa ngang sông.  Bên kia cầu, những cánh đồng bao la bát ngát trải ra trước mắt.  Bầu trời xanh như lông chim bói cá.  Xa xa, chúng tôi thấy những ngôi làng--những nơi mà tôi nghĩ cả đời mình cũng chẳng có dịp đến.  Rồi chúng tôi trèo xuống bờ sông nghe gió thổi xào sạc qua những dặng lau sậy.  Tôi ngồi trên một mỏm đá, tháo giầy ra, và khuấy chân dưới nước.  Bẩy mươi năm đã trôi qua mà tôi vẫn còn nhớ được cái cảm giác của bùn giữa ngón chân, của dòng nước chảy xiết, mát lạnh trên da.  Diễm Nguyệt và tôi lúc ấy đã có được cái tự do mà sẽ không bao giờ có lại.  Nhưng có một cái khác mà tôi cũng nhớ rõ.  Ngày hôm đó tôi đã nhìn gia đình tôi bằng một con mắt khác thường và tất cả những u sầu, ghen tị, và bất công bỗng trôi đi theo dòng nước chảy.

Sau bữa ăn tối, cả nhà ngồi ngoài sân hóng gió và nhìn Ba Ba và Chú hút dọc tẩu dài thòng lòng.   Má Má đang cho thằng Cu bú cữ chót trước khi đi ngủ.  Bà trông mệt mỏi vì làm việc quần quật cả ngày mà vẫn chưa hết việc.  Tôi choàng tay qua vai để an ủi.

“ Nóng quá,” bà nói, rồi đẩy tay tôi qua một bên.

 Ba Ba chắc thấy được vẻ thất vọng trên mặt tôi nên ông ôm tôi ngồi vào lòng.  Trong bóng tối yên lặng, tôi được ông trân quí.  Trong giây phút đó, tôi như hòn ngọc trai trong tay bố.






















3- Bó chân

Thủ tục chuẩn bị bó chân của tôi kéo dài hơn dự tính.  Trong thành phố, con nhà danh giá bắt đầu từ lúc lên ba.  Ở vài tỉnh khác, con gái chỉ bó chân tạm để coi được với chồng tương lai.  Lắm khi mười ba tuổi mới bắt đầu.  Xương không bị gẫy, vải bó lỏng hơn, và, một khi lấy chồng xong, băng được tháo ra để có thể làm việc đồng áng chung với chồng.  Con nhà nghèo thì khỏi bó chân luôn.  Chúng tôi thừa biết số phận của tụi nó.  Hoặc bị bán đi làm đầy tớ hay thành “ con-dâu-lẽ”--những đứa con gái chân to được cho gia đình khác nuôi cho đến khi đủ lớn để đẻ con.  Nhưng trong cái tỉnh xoàng xoàng của tôi, con gái bắt đầu bó chân khi lên sáu.

Ngay cả trong lúc tôi đang chạy nhảy với anh, thì trong này mẹ đã bắt đầu chuẩn bị những giải khăn màu xanh dài dùng vào việc bó chân.  Bà khâu tay đôi giày đầu tiên của tôi, và còn khâu tỉ mỉ hơn đôi giày nhỏ xíu sẽ đặt trên bàn thờ Quan Âm--vị phật sẵn sàng lắng nghe những giọt nước mắt của đàn bà.  Những chiếc giày thêu chỉ dài độ ba phân rưỡi và được làm từ miếng lụa đỏ mà mẹ tôi để dành từ của hồi môn.  Đó là lần đầu tiên tôi hiểu là mẹ tôi thương tôi.  

Khi Diễm Nguyệt và tôi lên sáu, Má Má và Thím cho mời thầy về để tìm ngày lành tháng tốt để bó chân.  Mùa thu là thời điểm thuận tiện nhất vì mùa đông sắp đến và trời lạnh thì bớt đau.  Tôi có vui không? vui gì mà vui.  Sợ gần chết.  Hồi chị Gái Lớn băng chân thì tôi còn bé quá nên không nhớ.  Nhưng ai trong làng mà không nghe thấy tiếng rú của con gái nhà họ Võ?

Mẹ tôi chào đón thầy Hồ dưới nhà, rót trà, và mời ăn hạt dưa.  Thày bắt đầu với tôi.  Thày nhìn ngày sanh tháng đẻ, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói,  “ Tôi phải nhìn tận mắt con bé này mới được.”  Cái này hơi không bình thường, và khi đi tìm tôi thì mặt mẹ tôi hiện rõ nét âu lo.  Bà dắt tôi đến ông thày bói và bắt tôi đứng trước mặt, ngón tay bấu chặt vào vai làm tôi sợ hãi.  

“ Mắt, được.  Tai, được.  Cái mồm này, hừ.” Ông nhìn lên mẹ tôi.  “ Con bé này chẳng phải là hạng thường đâu.”
Mẹ tôi nghiến răng, nín thở.  Đây là một tin không tốt chút nào.
“ Phải tham khảo ý kiến thêm mới được,”  ông thày bói nói.  “ Tôi đề nghị mình hỏi ý kiến của bà mối được không?”
Có người thế nào cũng nghi ngờ ông thày bói muốn bòn thêm tiền và biết đâu có thông đồng với bà mối, nhưng mẹ tôi chẳng chút ngần ngại.  Sự sợ hãi và lòng tin của mẹ tôi mạnh mẽ đến độ dám quyết định mà chẳng hỏi ý kiến hay xin phép cha tôi.

“ Xin thầy trở lại càng sớm càng tốt,” bà nói.  “ Chúng tôi sẽ mong lắm đấy.”

Ông thầy bói từ giã để chúng tôi ở lại băn khoăn không biết phải làm gì.  Tôi hôm đó mẹ tôi ít nói và không nhìn mặt tôi.  Thím tôi không nói chuyện khôi hài như thông lệ.  Bà tôi đi ngủ sớm, và tôi có thể nghe tiếng lâm râm cầu nguyện.  Ba Ba và Chú đi tản bộ.  Ngay cả anh tôi cũng ít nói.

Hôm sau đàn bà dậy sớm.  Họ làm bánh ngọt, pha trà hoa cúc, và lấy đĩa đẹp trong chạn ra bày.  Cha tôi nghỉ không ra đồng để đón khách.  Chuẩn bị trang trọng này cho thấy sự nghiêm trọng của vấn đề.  Nhưng ông thầy không mang lại Bà Cao, bà mối làng trong, nhưng mang lại bà Vương, bà mối làng Tùng Khẩu, một làng sang trọng nhất vùng.

Để tôi nói:  bà mối làng mình mà còn chưa gặp nữa là.  Một hai năm nữa mới phải lo lấy vợ lấy chồng cho Anh Cả và chị Gái Lớn.  Bởi vậy nên khi kiệu bà Vương xịch lại trước cửa, cả nhà chưng hửng.  Ngồi trên lầu tôi thấy hàng xóm bu lại coi.  Cha tôi quì gối, đầu cúi chạm đất.  Kể cũng tội.  Cha tôi tuổi con mèo nên cả lo.  Tuy là chủ gia đình nhưng cha tôi không có kinh nghiệm với mấy chuyện này.  Chú tôi đứng nhấp nhổm, còn Thím--ngày thường niềm nở vui vẻ--đứng cứng ngắc bên cạnh.   Nhìn gương mặt cả nhà là tôi biết có chuyện chẳng lành.

Mọi người vào nhà xong xuôi rồi tôi mới rón ré bò lại nóc cầu thang để nghe lén.  Bà Vương ngồi xuống là trà bánh mang ra.  Cha tôi líu nhíu nói mấy lời xã giao chào hỏi, nhưng bà Vương đâu phải lại đây để chuyện vãn với cái gia đình nghèo này.  Bà muốn gặp tôi.  Tôi xuống thang đi vào phòng khách với vẻ thướt tha của một con bé mới lên sáu.  

Sau này, dù thời gian có làm nhạt nhòa kỷ niệm nhưng hình ảnh của những khuôn mặt hôm ấy tôi vẫn còn nhớ như in.  Bà nội cúi nhìn hai bàn tay chắp lại.  Da bà mỏng nên tôi thấy được những sợi gân xanh nổi lên trên trán.  Cha tôi thì lo không nói nên lời.   Chú Thím tôi đứng ở ngưỡng cửa, tuy sợ nhưng không bỏ qua được.  Nhưng tôi nhớ nhất mặt mẹ tôi.  Dĩ nhiên là con ai chẳng nghĩ mẹ mình đẹp, nhưng hôm ấy tôi thấy được con người thật của bà.  Tôi vẫn biết bà sanh năm con khỉ, nhưng không ngờ bà lại có thể mánh khoé và thủ đoạn như vậy.  Có một cái gì phàm tục ẩn hiện dưới cặp lưỡng quyền nhô cao.  Có một cái gì quỉ quyệt lấp lánh trong đôi mắt đen nhánh.  Có một cái gì----tôi vẫn không biết sao tả được.  Tôi sẽ nói có một cái gì giống như tham vọng đàn ông tỏa ra từ làn da.  

Tôi bị bắt phải đứng trước mặt bà Vương.  Tôi thấy chiếc áo cánh dệt bằng sợi của bà thật là đẹp, nhưng con nít biết quái gì.  Giờ nghĩ lại thì thấy là nó hơi màu mè lố bịch cho một góa phụ, nhưng bà mối không phải là một người đàn bà bình thường. Họ phải làm ăn với nam phái, đặt giá tiền thách cưới, mặc cả của hồi môn, và làm người trung gian.  Tiếng cười bà Vương hơi to quá và lời nói hơi trơn tru.   Bà ra lệnh cho tôi tới trước, kẹp tôi giữa đùi, và nhìn kỹ vào mặt tôi.  Tôi đang từ vô hình thành trở nên rất nổi.

Bà Vương tỉ mỉ hơn ông thày bói nhiều.  Bà véo dái tai.  Bà lấy ngón tay kéo mí dưới xuống rồi bắt nhìn lên, xuống, trái, phải.  Bà ôm má tôi xoay tới xoay lui.  Bà bóp mạnh từ vai xuống tới cổ tay.  Rồi bà đặt tay lên hông tôi.  Tôi mới lên sáu thì làm sao biết được mắn đẻ hay không!  Thế mà bà vẫn làm mà chả ai dám nói gì.  Rồi bà làm một điều làm mọi người ngạc nhiên.  Bà đứng lên và nói tôi ngồi xuống ghế của bà.  Làm như vậy đâm ra tôi chẳng hỗn láo sao?  Tôi liếc nhìn bố mẹ nhưng họ đứng đó như trời trồng.  Mặt cha tôi xám ngoét và tôi có thể nghe được ý nghĩ của ông.  Sao khi đẻ ra không vất mẹ nó xuống suối cho xong?

Là bà mối quan trọng nhất vùng, bà Vương đâu phải là loại người đứng đó đợi người khác quyết định.  Bà bế tôi rồi đặt ngồi xuống ghế.  Rồi bà quì xuống và gỡ giày gỡ vớ tôi ra.  Không một tiếng động.  Bà cầm chân tôi ngắm nghía rồi lấy ngón cái vuốt dọc gan bàn chân.

Bà Vương nhìn qua ông thày bói, gật đầu.  Bà đứng dậy vẫy tay đuổi tôi khỏi ghế.  Sau khi bà đã an tọa, ông thày bói dặng hắng.

“ Con gái ông bà là một trường hợp đặc biệt,” ông nói.  “ Hôm qua tôi đã thấy rồi, và bà Vương, một người có nhiều kinh nghiệm, cũng đã đồng ý.  Mặt cháu thon dài như hạt gạo.  Dái tai nó dày có nghĩa nó có tinh thần rộng lượng.  Nhưng bàn chân là quan trọng hơn hết.  Vòm chân nó cao nhưng chưa phát triển hoàn toàn.  Điều này có nghĩa là phải đợi một năm nữa rồi mới tính chuyện bó chân được.”  Ông đưa tay lên ngăn không cho ngắt lời.  “ Tôi biết bảy tuổi không phải là tục lệ làng ta, nhưng nếu quí vị nhìn cháu thì sẽ thấy---”

Thầy Hồ ngần ngừ.  Bà nội đẩy tô quít về phía ông để có thì giờ suy nghĩ.  Ông lấy một quả, bóc ra, và vất vỏ xuống đất.  Cầm một múi đưa lên miệng, ông nói tiếp.

“Khi lên sáu, xương còn lỏng nên dễ uốn.  Nhưng con gái ông bà hơi chậm phát triển so với tuổi, ngay cả khi so với trong làng, mà làng này thì đã chịu nhiều năm khó khăn.  Có lẽ những đứa con gái khác trong gia đình này cũng vậy.  Chẳng có gì phải xấu hổ.”

Ông bỏ múi quít vào miệng, nhai chậm rãi, và tiếp tục.  “ Nhưng ngoài yếu tố nhỏ con vì thiếu dinh dưỡng, cháu gái còn có một cái khác.  Cháu có vòm chân rất cao, có nghĩa là nếu chuẩn bị đàng hoàng, chân cháu có thể sẽ đẹp nhất vùng.”

Nhiều người không tin thày bói, cho là̀ họ chỉ nói lên lẽ thường tình.  Ai mà chả biết mùa thu bó chân, mùa xuân sanh con, và một ngọn đồi xinh xinh có gió hiu hiu sẽ có phong thủy tốt cho việc chôn cất.  Nhưng ông thày bói này đã thấy một cái gì và đã làm thay đổi cuộc đời của tôi.  
Nhưng lúc ấy chẳng ai mừng rỡ.  Căn phòng im lặng một cách lạ lùng.  Có một cái gì rất là không ổn.

Bà Vương nói, phá tan bầu yên lặng.  “ Con bé khá xinh xắn, nhưng gót sen quan trọng hơn nhiều.  Mặt đẹp là trời cho, nhưng chân nhỏ giúp tiến thân trong xã hội.  Điều này ai cũng đồng ý.  Hơn nữa thì còn tùy ông bố. “  Bà nhìn thẳng vào mặt Ba Ba nhưng lời nói hướng về mẹ tôi.  
“ Thông gia tốt không khải là một điều xấu.  Một gia đình quyền cao chức trọng sẽ mang lại sự quen biết và giá tiền thách cưới cao hơn, và bảo vệ mặt chính trị và kinh tế.  Xin cám ơn sự tiếp đón nồng hậu của quí vị dành cho chúng tôi hôm nay.” bà nói, làm nổi bật sự nghèo khó của nhà tôi bằng một cử động uể oải của bàn tay,  “ định mệnh--con gái của ông bà--đã mang lại cơ hội.  Nếu bà mẹ khéo léo, thì con bé chẳng đáng gì này có thể lấy vào một gia đình ở Tùng Khẩu.”

Tùng Khẩu!

“ Điều bà nói hay lắm,” cha tôi nói một cách thận trọng.  “ Nhưng gia đình chúng tôi nghèo, tiền đâu trả nổi tiền mối mai.”

“ Thưa ông,” Bà Vương trả lời giọng dẻo quẹo, “ nếu chân con gái ông được như tôi nghĩ, thì gia đình đàng trai sẽ trả hậu hĩnh cho tôi.  Còn ông bà sẽ được tiền thách cưới cao.  Thành thử ra như ông thấy đó, cả ông lẫn tôi đều có lợi cả.”

Cha tôi không nói gì̀.  Ông không bao giờ nói chuyện đất đai hay chia xẻ ý nghĩ, nhưng tôi nhớ một mùa đông sau nạn hạn hán, nhà tôi không có thức ăn dự trữ.  Cha tôi phải lên núi đi săn, nhưng cả thú rừng cũng chết vì đói.  Ba Ba đã phải đào củ đắng mang về để mẹ tôi và bà tôi nấu canh.  Có lẽ trong lúc này ông đang nhớ lại mối nhục nhã năm đó và đang cố hình dung xem số tiền thách cưới sẽ mang lại cho gia đình những gì.

“  Ngoài những chuyện này,” bà mối nói tiếp, “ tôi tin là con gái ông bà có thể có một liên hệ lão đồng.”

Cái này thì tôi biết.  Quan hệ Lão Đồng không như chị em kết nghĩa mà là một sợi dây kết hợp trọn đời gắn bó giữa hai người con gái khác làng.  Chị em kết nghĩa có nhiều người và giải tán khi đi lấy chồng.  Cả đời tôi chưa gặp một lão đồng nào và cũng chẳng bao giờ ngờ là sẽ có.  Thời còn con gái, mẹ tôi và thím tôi có bạn kết nghĩa ở cùng làng.  Chị Lớn đang có một đám bạn gái, còn bà nột tôi thì có mấy bà bạn góa làm bạn kết nghĩa cuối đời.  Tôi đã tưởng là rồi mình cũng sẽ như vậy.  Nhưng thay vì khích động thì tôi lại thất kinh.  Cha tôi nói phọt ra,  “ Tất cả đàn bà nhà này chẳng ai có lão đồng lão điếc gì cả.”

“ Có thiếu gì thứ nhà này không có,”  Bà Vương nói và nhổm người đứng dậy.  “ Cả nhà cứ bàn tính lại cho nó kĩ, nhưng nhớ một điều là, dịp may ngàn năm có một, để mất uổng lắm.  Tôi sẽ trở lại sau.”

Sau khi bà mối và thầy bói đi rồi thì hai mẹ con tôi lên gác.  Bà quay lại nhìn tôi bằng một vẻ mặt khó hiểu, rồi trước khi tôi có thể mở miệng nói, tát thật mạnh vào mặt tôi.

Mặc dù mặt rát bỏng nhưng lòng tôi sung sướng.  Cái tát đó để xua đuổi tà ma, mang lại may mắn.  Cái tát này là lần đầu tiên mẹ tôi đã biểu lộ tình cảm của mình, và tôi đã phải cắn răng để khỏi bật khóc.

Mẹ tôi xuống nhà nói chuyện với mọi người.  Chú tôi là phận em nên chẳng có quyền hành gì.  Thím tuy tốt bụng nhưng là một người đàn bà không có con trai nên vai vế coi như thấp nhất.  Chỉ có Bố và bà nội có quyền quyết định nhưng lại ba phải, dễ bị lung lạc.  Nếu làm theo lời bà mối thì cha tôi sẽ phải cố lắm để xây dựng của hồi môn cho xứng đáng kẻo không sẽ mất mặt với hàng xóm láng giềng.  

Năm sau, tôi bắt đầu phải học ráo riết nữ công gia chánh.  Tôi biết đàn ông ít khi nào bước chân vào nữ phòng, nơi chúng tôi làm việc và tâm sự.  Tôi biết mình sẽ chôn chặt cuộc đời vào một cái phòng như vậy.  Tôi biết sự khác biệt giứa NỘI--lĩnh vực trong nhà--và NGOẠI--thế giới bên ngoài của đàn ông--là trọng tâm của một xã hội Khổng giáo.  Không cần biết giàu nghèo hay sang hèn.  Đàn bà không được bước ra khỏi ngưỡng cửa của nội phòng, cho dù bằng hành động hay ý nghĩ.  Tôi hiểu lẽ Tam Tòng: “ Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”  và Tứ Đức: công, dung, ngôn, hạnh.  Tôi bắt đầu học cách xâu chỉ, sỏ kim, học khâu sao cho mũi chỉ nhỏ và đều.  Diễm Nguyệt, Bé Ba và tôi đang bắt đầu khâu giầy để mang trong giai đoạn bó chân.  Giày để đi ban ngày, giày mang lúc đi ngủ, và nhiều đôi vớ.  Chúng tôi làm theo thứ tự, bắt đầu bằng những cái đi bây giờ và rồi nhỏ dần, nhỏ dần.  Thím bắt đầu dạy chúng tôi NỮ THƯ.  Lúc đầu tôi chưa hiểu nhưng sau mới biết Thím mong chúng tôi học để có thể duy trì và chia sẻ suốt đời.  Chữ đàn ông nét mạnh và nằm gọn trong ô vuông, còn nữ thư thì lằng ngoằng như chân muỗi và không có một nghĩa nhất định.  Nữ thư căn bản là một âm ngữ, dựa trên phát âm, và do đó một chữ có thể có nhiều nghĩa.  Thím dặn đi dặn lại hai nguyên tắc quan trọng nhất về nữ thư:  Thứ nhất không được để đàn ông biết đến, và thứ hai không cho đàn ông đụng đến.

Năm tôi bảy tuổi thì ông thầy trở lại.  Lần này ông phải chọn ngày lành tháng tốt để bó chân cho cả ba đứa--Diễm Nguyệt, tôi, và Tam Thư (Bé Ba).  Ông bấm tay lẩm nhẩm tính toán SANH THÌ BÁT TỰ hay còn gọi là TỨ TRỤ MỆNH LÝ HỌC, căn cứ trên ngày, giờ, tháng, năm sanh.  Cuối cùng thì ông chọn ngày hai-mươi-bốn tháng tám âm lịch--trùng đúng vào ngày lễ của Tiểu Túc Thần Nữ, vị thần cai quản việc bó chân.  

Má Má và Thím bắt đầu cho chúng tôi ăn hồng đậu thang viên, tức là món chè đậu đỏ, để giúp xương mềm như chè và chân nhỏ như viên bánh.  Trong giai đoạn này hàng xóm đến thăm lũ lượt.  Mấy người bạn gái của Đại Thư (chị Lớn) mang lại bánh kẹo chúc mừng.  Mọi người đều cười nói, vui mừng, nhưng không ai cho tôi biết là cứ mười đứa con gái bó chân thì có một đứa chết.  Tôi chỉ biết là bó chân đễ dễ lấy chồng và để mang lại niềm vui và hạnh phúc lớn nhất của người đàn bà--một đứa con trai.  

Muốn chân bó đẹp cần có bẩy yếu tố: Chân phải nhỏ, thon, thẳng, nhọn, và có vòm cong.  Chiều dài là quan trọng nhất.  Bẩy xăng-ti-mét--chiều dài của ngón cái--là lý tưởng.  Kế đến là hình thù.  Một bàn chân lý tưởng phải có hình dạng của một nụ sen.  Gót phải tròn và đầy đặn, mũi phải nhọn, trọng lượng dồn hết vào ngón cái.  Có nghĩa là những ngón nhỏ và vòm cung phải bẻ gẫy rồi cho quặp lại phía gót chừa lại một đường rãnh giữa chân trước và gót.  Rãnh này phải đủ sâu để có thể nhét một đồng bạc đồng to đùng vào trong đó.  

Ngày hai-mươi-bốn tháng tám chúng tôi cúng Bà Thần Chân Nhỏ bánh trôi, còn mẹ tôi đặt những đôi giầy tí hon trước tượng Phật Bà Quan Âm.  Sau đó Má Má và Thím mang ra phèn chua, thuốc săn da, kéo, đồ cắt móng chân, và kim chỉ.  Rồi họ lấy những vành băng dài đã làm sẵn, mỗi cái chiều ngang năm phân, chiều dài ba mét, đã được hồ bột sơ sơ.  Rồi thì mọi người đi lên gác.  Đại Thư khiêng theo một thùng nước nóng trong đó có ngâm rễ cây dâu, hạnh nhân tán nhuyễn, nước tiểu, thuốc bắc, và vài loại rễ cây khác.    

Vì lớn nhất nên tôi phải đi đầu.  Má Má rửa chân tôi bằng nước phèn để làm săn da và để đỡ máu mủ.  Xong móng chân được cắt sát rạt.  Trong lúc ấy thì băng cuốn đang được ngâm sẵn để khi khô sẽ co lại.  Rồi Má Má cầm một đầu băng đặt vào mu bàn chân và quấn trên bốn ngón nhỏ để uốn ngón xuống bàn chân.  Xong bà quấn băng chung quanh gót chân và cổ chân.  Mục đích là để ngón chân chạm vào gót tạo thành cái khe, chừa chỉ ngón cái để đi.  Má Má quấn như vậy nhiều vòng cho đến khi hết cuộn băng.  Cuối cùng mẹ khâu chặt hai đầu lại kẻo tuột và để tôi không thể gỡ ra được.

Kế tiếp Thím bắt đầu quấn băng Diễm Nguyệt.  Con Bé Ba nói phải chạy xuống nhà uống nước.  Khi Diễm Nguyệt băng xong vẫn không thấy bóng dáng con Bé Ba đâu.  Tôi muốn chạy ra cửa sổ lưới nhìn xuống nhưng chân đã bắt đầu đau nhói.  Tôi nhìn qua Diễm Nguyệt thì thấy mặt nó cũng trắng bệch vì đau.  Mẹ tôi và Thím chạy ra ngoài đi vừa kiếm vừa gọi ầm ĩ.  Một hồi sau có tiếng con Bé Ba nói, “ Không con không làm đâu.  Con không làm đâu.”
Rồi tiếng mẹ tôi mắng to.  “ Mày là một con chẳng ra cái giống gì, chỉ làm tổ tiên dưới suối vàng phải tủi hổ.”   Tam Thư bị đẩy vào phòng, nhưng vừa té xuống thì liền lồm cồm bò dậy chạy và góc phòng đứng co ro.  Mẹ và Thím mỗi người một bên đến túm cổ nó và lôi sềnh sệch ra.  Nó tuy mới có sáu tuổi nhưng cũng cố vùng vẫy.  Đại Thư, Thím, và Bà Nội hè nhau đè nó xuống trong khi Má Má quấn vội băng chân.  Trong khi đó thì nó gào thét cả xóm cũng nghe thấy.  Cuối cùng thì Má Má liệng bàn chân đã quấn xuống sàn và thốt lên vỏn vẹn ba chữ: “ Đồ vô dụng.”  Rồi mẹ tôi quay lại tôi, ra lệnh.  “ Đứng dậy.”
Chân tôi đang nhức nhối.  Tôi cố nén nước mắt nhưng không được.  Má Má lôi tôi ra khỏi ghế.  Chữ đau không đủ để diễn tả cảm giác lúc ấy.  Ngón chân tôi bẻ quặp dưới chân và sức nặng toàn thân đè lên chúng.  Tôi cố dựa vào gót để giữ thăng bằng.  Khi mẹ tôi thấy vậy, bà đánh tôi.  
“ Đi.”
Tôi cố hết sức lết bước đến cửa sổ, Má Má cúi xuống dựng cổ con Bé Ba dậy, lôi nó đến Đại Thư và nói.  “ Dắt nó đi qua đi lại mười lần.”  Nước mắt tôi chảy thành giòng khi mẹ tôi dắt tôi đi qua lại trong phòng.  Tôi nghe thấy tiếng mình rên rỉ.  Con Bé Ba la hú và giằng tay rút lại.  Bà Nội bình thương chỉ đứng cai quản, cũng phải cầm tay kia của con Bé Ba.  Chỉ có Diễm Nguyệt là cắn răng chịu đựng.

Sau khi đi lại mười lần, cuối cùng thì họ để chúng tôi yên, nhưng sự thử thách mới là bắt đầu.   Chúng tôi đói bụng nhưng ăn không được, vì ăn vào là nôn thốc nôn tháo ra.  Khi nằm xuống thì thật là nhẹ cả người, nhưng vài tiếng sau thì hai bàn chân cảm thấy nóng ran như ai đem chân hơ trên lửa.  Tội nghiệp cho Đại Thư phải ngủ chung với chúng tôi.  Thế là tối hôm ấy chẳng ai chợp được mắt.  Tối hôm sau còn tệ hơn nữa.  Cả ba đứa cố gỡ băng ra nhưng chỉ có con Bé Ba là có thể tháo được một chân.  Mẹ tôi vác roi đập túi bụi rồi quấn lại và bắt nó đi thêm mười vòng nữa.  Mẹ tôi dọa nó,: “ Mày có muốn làm tiểu nhi tức hay không? “
Tiểu nhi tức hay tiểu tức phụ có nghĩa là con dâu nhỏ, thường là những đứa con nhà nghèo, không bó chân, được lấy về chỉ để đẻ con mà thôi.  Câu hăm dọa này chúng tôi thường nghe nhưng chưa bao giờ gặp một đứa tiểu tức phụ nào bao giờ.  Thế mà con Bé Ba vẫn chịu thua.  

Đến ngày thứ tư thì chúng tôi ngâm chân quấn vải trong một thùng nước nóng.  Rồi băng quấn được gỡ ra và Má Má và Thím khám xét móng chân, gọt sạch da chai, chà sạch da chết, thoa thêm nước phèn và dầu thơm để át mùi thịt rữa, và rồi dùng băng mới quấn lại, lần này còn chặt hơn lần trước.  Cứ cách bốn ngày lại làm như vậy lại.  Cách hai tuần lại thay một đôi giày mới, nhỏ hơn.  Hàng xóm mang cho chè đậu đỏ để xương mềm nhanh hơn, ớt khô để bàn chân cũng thon và nhọn như vậy.  Bạn gái của Đại Thư mang những món quà đã giúp họ khi bó chân.  “ Cắn cái cán bút của của chị đi.  Đầu bút mỏng và thanh sẽ giúp chân em cũng thanh tú như vậy.”  Hay, “ Ăn quả ấu thì thịt sẽ co lại.”

Những đau đớn không hề thuyên giảm nhưng chúng tôi học được bài học quan trọng nhất trong cuộc đời đàn bà:  Phải nghe lời để tốt cho thân mình.  Ngay cả trong những tuần lễ ban đầu đó, con người của chúng tôi cũng đã bắt đầu hé lộ sơ sơ.  Diễm Nguyệt sẽ chịu đựng và xinh đẹp trong bất cứ tình huống nào.  Tam Thư sẽ trở thành một người vợ hay mè nheo, đắng cay với thân phận, và không hiểu rõ giá trị của những gì trời cho.  Còn phần tôi--đứa con gái được xem là đặc biệt--  Tôi chấp nhận số phần của mình mà không một lời thở than.

Một hôm, trong khi đi bộ ngang phòng tôi chợt nghe tiếng xương gẫy.  Một ngón chân đã gẫy.  Mẹ tôi nhìn tôi nói.  “ Có tiến bộ.  Đi tiếp.”  Đấn tối hôm ấy, tất cả tám ngón chân đều đã gẫy, nhưng tôi vẫn phải đi tiếp tục.  Trời tuy lạnh giá nhưng không đủ để làm tê đi cảm giác đau đớn vô cùng, nỗi lên trong người như một cơn thịnh nộ.  Ngày tháo băng cuốn lại, tôi ngâm chân như thường lệ, nhưng Má Má kéo những lóng xương đã gẫy rời, và nhét vào gan bàn chân.  Tôi chưa bao giờ thấy được tình mẹ rõ rệt như vậy.
“ Một quí phụ không chấp nhận sự xấu xa,” bà cứ lập đi lập lại mãi câu đó.  “ Muốn đẹp thì phải chịu đau.  Có đau khổ rồi mới tìm thấy được bình yên.  Tôi quấn, tôi cột, nhưng cô là người sẽ hưởng.”

Vài ngày sau thì ngón của Diễm Nguyệt gãy, nhưng xương con Ba  vẫn trơ trơ ra đó.  Má Má bắt Đại Huynh đi kiếm một viên sỏ nhỏ để chêm vào ngón chân Tam Thư.  Trước đây nó đã kêu to thì giờ kêu càng to hơn.  Chúng tôi tưởng nó làm bộ để được chú ý, nhưng khi tháo băng ra thì mới thấy sự khác biệt.  Dĩ nhiên máu mủ ngấm qua lớp băng là chuyện bình thường, nhưng trường hợp con Ba, chất nước chảy ra có một cái mùi khác lạ.  Và trong khi da của tôi và Diễm Nguyệt khô tái như da xác chết thì da của con Ba ửng hồng như một đóa hoa.

Bà Vương ghé lại xem xét và đề nghị vài loại thuốc uống với trà để giảm đau.  Tôi đợi đến khi tuyết bắt đầu rơi và xương mu bàn chân đã gẫy mới uống thử thứ thuốc đắng nghét ấy.  Trong khi đầu óc tôi đang mù mịt, phần vì thuốc, phần vì đau, thì tình trạng của Bé Ba bỗng thay đổi đột ngột.  Da nó nóng bỏng; mắt nó long lanh mê sảng trong cơn sốt.  Khi Má Má và Thím xuống nhà làm cơm trưa thì Đại Thư thấy em tội nghiệp nên cho nó nằm dài trên giường.  Diễm Nguyệt và tôi ngưng đi bộ, ra đứng cạnh giường.  Chúng tôi giúp chị kéo ống quần lên để xoa bóp cho nó.  Lúc đó chúng tôi mới thấy một vệt đỏ thô bạo nổi lên từ dưới lớp vải quấn, chạy ngoằn ngoèo lên cẳng chân.  Chúng tôi ngồi lặng nhìn một hồi rồi khám xét chân bên kia và cũng thấy một vệt đỏ y hệt như vậy.  

Đại Thư chạy xuống nhà và một lúc sau Má Má và Thím chạy vội lên gác.  Họ đứng nhìn cảnh tượng trong căn phòng: Bé Ba nằm nhìn lên trần nhà, hai cẳng chân khẳng khiu trần trụi, hai đứa con gái thì đứng sợ sệt bên cạnh, và Bà Nội đang đắp chăn nằm ngủ.  Thím liền chạy xuống nhà nấu nước sôi.  

Má Má tiến lại giường.  Bà không có gậy chống nên hay tay múa phần phật như một con chim gẫy cánh.  Sau khi Thím trở lại, Má Má bắt đầu tháo gỡ băng chân.  Một mùi ghê tởm bốc lên và Thím oẹ khan.  Mặc dù ngoài trời đang tuyết nhưng Đại Thư xé toạc lớp giấy gạo dán cửa sổ để thoát mùi.  Cuối cùng thì hai chân của Bé Ba được mở hẳn ra.  Mủ đã chuyển ra màu xanh đậm và máu đông lại thành một thứ bùn nâu thối tha.  Bé Ba được dựng ngồi dậy và hai bàn chân trần trụi thọc vào nồi nước nóng bốc khói.  Nó mê sảng đến độ chẳng kêu lên một tiếng nào.

Những tiếng thét la của nó tuần trước bây giờ bỗng nhiên có một ý nghĩa khác.  Phải chăng nó đã biết trước ngay từ đầu là chuyện sẽ chẳng lành?  Có phải đó là lý do tại sao nó nhất định phản kháng cho bằng được? Có phải Má Má làm vội nên đã xảy ra cớ sự này?  Hay là tại nó thiếu dinh dưỡng như lời bà Vương nói? Kiếp trước nó đã làm gì để giờ ra nông nổi này?

Má Má chà xát để cố làm sạch nhiễm trùng.  Bé Ba ngất xỉu.  Nước trong nồi đục ngầu máu mủ tanh hôi.  Cuối cùng Má Má kéo chân ra khỏi nồi nước và lau khô.

“ Mẹ,” Má Má gọi mẹ chồng, “ Mẹ có khinh nghiệm hơn.  Giúp con với.”

Nhưng Bà Nội vẫn nằm yên không động đậy.  Má Má và Thím không biết phải làm gì.

“ Phải phơi chân cho nó khô.”  Má Má đề nghị.
“ Không được đâu,” Thím nói.  “ Xương nó đã gẫy rồi.  Nếu không bó thì sẽ không bao giờ lành đàng hoàng.  Nó sẽ què rồi ai mà lấy.”
“ Chẳng thà cho nó ở vậy còn hơn là mất con.”

Trong khi họ cãi nhau thì Bé Ba vẫn nằm yên không động đậy.  Thế là họ bôi phèn lên da và bó chân lại.  Ngày hôm sau tuyết vẫn rơi và tình trạng của bé còn tệ hơn nữa.  Mặc dù nhà chúng tôi nghèo nhưng Ba Ba lội tuyết đi mời ông lang về.  Ông nhìn con bé rồi lắc đầu.  Vô phương cứu chữa.  Thầy lang nói ông có thể hòa thuốc để đắp và hốt một thanh thuốc để uống, nhưng ông là một người tốt và thành thật.
“ Làm thì làm được,” ông nói thật với Ba Ba, “ Nhưng chỉ tốn tiền vô ích.”

Nhưng mà họa vô đơn chí, trong chúng tôi đang cúi đầu lạy tạ thì  ông lang chợt để ý thấy Bà Nội nằm đắp chăn.  Ông đến rờ đầu và bắt mạch rồi ông ngẩng lên nhìn cha tôi.  “ Cụ bà bệnh rất nặng.  Tại sao ông không nói?”

Ba Ba không biết nói sao cho khỏi mất mặt.  Ông là người con có hiếu, nhưng là đàn ông nên không lo chuyện trong nhà.  Nhưng dù sao đi nữa thì sức khoẻ của mẹ vẫn là trách nhiệm của kẻ làm con.  Trong khi hai anh em ông ngồi dưới nhà hút thuốc chờ mùa đông hết, thì trên gác hai người đã ngã bệnh.

Rồi cả nhà lại tự hỏi, có phải vì đã bỏ quá nhiều thì giờ cho một con bé vô dụng mà xao lãng bổn phận đối với người đàn bà quan trọng nhất nhà? Có phải tại Bà Nội đã phải giúp Bé Ba đi qua đi lại mà mất hết sức? Hay tại quỉ thần đến rình mồi Bé Ba rồi muốn mang theo thêm một nạn nhân nữa?

Sau bao nhiêu náo động và chú ý dành cho Bé Ba trong những tuần lễ vừa qua, bây giờ tất cả tập trung chuyển qua Bà Nội.  Cha tôi và chú tôi túc trực bên cạnh bà, trừ lúc đi ăn, đi cầu, hay hút thuốc.  Thím cáng đáng mọi chuyện trong nhà, nấu ăn cho mọi người, giặt gịa và lo cho tất cả.  Tôi không thấy Má Má đi ngủ bao giờ.  Là con dâu trưởng, bà có hai trách nhiệm chính trong đời: một là sanh con trai để nối dõi tông đường và hai là để phụng dưỡng mẹ chồng.   Đáng lý mẹ phải siêng năng cần mẫn hơn trong việc phụng dưỡng, nhưng mẹ đã để cho cái ước mơ rất là người nó cám dỗ, nên đâm ra chú ý đến tương lai may mắn của tôi.  Giờ đây, với quyết tâm mãnh liệt để bù lại những thiếu xót trước đây, bà thi hành tất cả những lễ nghi do phong tục qui định, chuẩn bị lễ vật cúng kiến, tụng kinh và lấy máu làm huyết thang mong sao sức khoẻ của Bà Nội có thể hồi phục.

Diễm Nguyệt và tôi được giao nhiệm vụ trông chừng Bé Ba.  Chúng tôi mới lên bảy nên không biết dùng lời nào để an ủi em.  Bốn ngày sau nó chết, sau khi đã phải chịu đựng quá nhiều đau khổ trong một cuộc đời thật ngắn ngủi.  Bà Nội chết một ngày sau đó.  Không ai thấy bà tỏ vẻ đau đớn.  Bà chỉ cuộn tròn lại như một con sâu bướm dưới tấm thảm lá mùa thu.

Đất còn đông cứng nên không đào huyệt được.  Hai người bạn kết nghĩa đến chăm sóc xác bà.  Họ ngân nga những khúc hát thê lương, cuộn xác bà trong lớp vải mút-xơ-lin, và chuẩn bị cho bà sang thế giới bên kia.  Bà là người trọng tuổi, sống lâu, nên đồ khâm liệm có nhiều lớp.  Tam Thư mới lên sáu nên chỉ mang theo vài bộ quần áo mặc thừa của chị em tôi.  










4-  Cây quạt


Kể từ ngày bó chân đến nay đã được sáu tháng;  bà và em chết đã được hai tháng.  Tuyết đã tan, đất đã mềm, đã đến lúc chuẩn bị để chôn Bà Nội và Bé Ba.  
Đời người Dao -- không, của tất cả mọi người Hán, có ba lần tốn tiền:  lúc sanh đẻ, lúc cưới xin, và khi chết.  Ai mà chả muốn sống cho vui, chết được đẹp. Nhưng cũng còn tùy số mạng.   Bà là trưởng tộc, một đời mẫu mực; em Bé Ba thì chưa nên cái trò trống gì.  Ba và chú gom góp tiền bạc mướn thợ trên Thượng Tưởng Húc đóng một cỗ quan tài tốt cho bà.  Còn Bé Ba thì Ba và chú đóng lấy một cái hòm nhỏ.  Chị em kết nghĩa của bà lại lục tục đến, và cuối cùng thì thủ tục ma chay bắt đầu.  

Thế mới biết là nhà nghèo.  Có tiền thì Ba đã dựng vòm góa phụ để tưởng nhớ cuộc đời bà.  Có khi còn mời thầy chọn hướng đất cho hợp lẽ phong thủy hay cho người cáng con gái và cháu, vẫn chưa đi bộ được xa, đến nghĩa trang.  Thế là Má Má cõng tôi, còn Thím cõng Diễm Nguyệt.  Đám ma lèo tèo dăm người đi đến một mảnh đất không xa, còn trong phạm vi của mảnh đất mướn.  Ba và chú quì xuống đất khấu đầu vái lạy ba lần.  Má Má thì nằm lăn ra xin tạ tội.  Rồi chúng tôi đốt vàng đốt mã, nhưng người đến tham dự chỉ được mời ăn kẹo.

Mặc dù Bà Nội không đọc được nữ thư nhưng còn giữ được quyển sách cưới.  Quyển này cùng vài vật quý khác được các chị em kết nghĩa gom lại đốt tại mộ, để những chữ ấy sẽ bay theo về bên kia thế giới.  Họ xúm nhau lại hò:
“ Đi về nơi ấy, gặp chị gặp em, có vui có sướng, cũng nhớ đừng quên.  Dù ngó sen tuy bẻ gãy nhưng cái tơ vẫn còn liền (Ngẫu đoạn nhi ti liên---người dịch chú thích), tình nghĩa chúng ta vẫn bền vững mãi mãi.”  
Chẳng ai đá động gì đến Con Ba.  Vì nó chưa viết chữ nên Má Má,Thím, và Đại Thư đợi đám đàn ông đi về rồi mới viết vài hàng nữ thư rồi đốt đi để đệ trình lên tổ tiên.  

Tuy phải để tang ba năm nhưng giòng đời vẫn tiếp tục trôi.  Những ngày tháng bó chân đau đớn đã qua, chúng tôi chỉ còn việc ngồi đợi chân lành.  Mỗi sáng chị Lớn dậy tôi thêu thùa.  Má Má dạy kéo sợi; chiều thì dệt vải.  Diễm Nguyệt cũng y như vậy, nhưng thứ tự đảo ngược.  Buổi chiều thì Thím dạy chúng tôi học nữ thư.  Bà Cao, bà mối làng, đến thường xuyên để sắp xếp thủ tục Dạm Hỏi, bước đầu trong năm thủ tục tiến tới hôn nhân cho anh Cả và chị Lớn.  Bà Cao đã tìm ra một người con gái con nhà cùng làng của bà ở Cao Gia, gia cảnh cũng tương tự, để làm mối cho anh Cả.  Cái này kể khá tiện cho cô con dâu tương lai, vì bà Cao hay đi đi về về giữa hai làng nên có thể gửi thư từ tới lui được.  Cô nàng thích chí quá nên lúc nào cũng toe toét miệng cười, để hở một hàm đầy răng nhọn lởm chởm.

Chị Lớn, ai gặp cũng khen là xinh đẹp và kín đáo, sẽ lấy chồng con nhà khá hơn nhà tôi nhưng phải cái ở cái làng Ca Đàm xa lắc tí tè.  Tuy buồn vì sẽ ít khi gặp, nhưng vẫn còn sáu năm nữa mới làm đám cưới, và rồi hai ba năm sau mới thực sự chia tay.  Vùng tôi có tục lệ, con dâu có bầu rôi mới về ở luôn nhà chồng.

Bà Cao chẳng giống bà Vương chút nào.   Phải dùng chữ thô lỗ thì chính xác hơn.  Trong khi bà Vương mặc áo lụa thì bà Cao mặc áo bằng vải thô may ở nhà.  Trong khi ngôn từ bà Vương trơn tru như mỡ ngỗng thì lời của bà Cao nghe như chó cắn ma.  Bà đi xồng xộc lên gác, ngồi vắt vẻo trên ghế đẩu, bắt cả lũ con gái đưa chân cho bà xem.  Dĩ nhiên chị lớn và Diễm Nguyệt phải vâng lệnh đã đành, nhưng số phận tôi đã do bà Vương định đoạt, thế mà Má Má nói tôi cũng phải ra cho bà xem.  Rồi còn những lời bà nói nghe mới sợ.  “ Cái khe con này sâu thế này thì thằng chồng phải sướng lắm.”  Hay, “ Gót đã cong mà dái chân còn ngỏng lên thế này làm chồng liên tưởng đến dái mình.  Cả ngày nó sẽ chỉ nghĩ đến chuyện chơi.”  Lúc ấy tôi còn ngây thơ chưa hiểu, khi hiểu ra thì mắc cở vì chuyện như vậy mà nói bô bô ra trước mặt Má Má và Thím.   Nhưng họ chỉ cười phụ họa.

Vào ngày tám tháng tư âm lịch năm ấy các người bạn kết nghĩa của chị tôi tụ tập tại nhà tôi nhân Ngày Chọi Trâu.  Năm cô đã ra vẻ biết cách tề gia bằng cách cho mượn gạo nhà đã cho để dùng tiền lời mà ăn mừng.  Mỗi cô mang một món làm sẵn ở nhà: hủ tíu, cải ngọt xào trứng muối, giò heo nấu cay, đậu đũa ngâm, và bánh nếp.  Rồi họ còn cùng nhau làm bánh bao hấp chấm với xì dầu pha chanh ớt.  Các nàng vừa ăn vừa cười khúc khích, vừa kể những chuyện nữ thư như “ Chuyện Tam Cô,” về một người con gái nhà giàu nhưng vẫn một mực thủy chung với người chồng nghèo mặc cho cuộc đời ba chìm bảy nổi và nhờ tiết hạnh ấy nên cuối cùng chồng thi đỗ làm quan; hay chuyện “ Con Cá Chép Thần,” trong đó một con cá chép hóa thành một thiếu nữ đẹp tuyệt trần, yêu chàng thư sinh văn hay chữ tốt, để rồi hiện lại nguyên hình.  

Nhưng thích nhất vẫn là chuyện “ Chuyện Nàng Thiếu Phụ và Ba Người Anh.”  Mấy nàng không thuộc hết nhưng không nhờ Má Má hò đối, mặc dù bà thuộc lời như cháo, mà lại đi nài nỉ Thím.  Diễm Nguyệt và tôi cũng nói thêm vào vì câu chuyện có-thật phổ-cập này-- vừa bi thảm nhưng cũng khôi hài-- là cách tốt để tập hò nữ thư

Một người bạn kết nghĩa đã tặng Thím chiếc khăn tay có thêu câu chuyện.  Thím cầm miếng vải, cẩn thận mở ra.  Diễm Nguyệt và tôi ngồi nhích lại gần để có thể đọc theo.  

“ Một nàng kia có ba người anh,” thím tôi bắt đầu.  “ Anh nào cũng có vợ, nhưng nàng vẫn chưa chồng.  Tuy nàng đoan chính và siêng năng nhưng ba anh không cho của hồi môn.  Ôi buồn thay! Biết làm gì bây giờ?”

Tiếng mẹ tôi hò đáp lại.  “ Nàng sầu nàng khổ, bèn ra vườn thắt cổ trên một cành cây.”

Tất cả lũ con gái cùng gân cổ hát phần hợp xướng.  “ Người anh cả đi ra vườn nhưng giả đò không thấy.  Anh thứ hai ra vườn nhưng giả đò không thấy.  Anh thứ ba thấy nàng, òa lên khóc, và mang xác em vào nhà.”

Bên kia phòng, mẹ tôi ngẩng lên và bắt gặp tôi đang nhìn lại.  Bà mỉm cười, có lẽ vì thấy tôi hát thuộc, không thiếu một chữ.

Thím lại bất đầu câu chuyện lại.  “ Một nàng kia có ba người anh.  Khi nàng chết không ai lo chôn cất. Tuy nàng đoan chính và siêng năng nhưng ba anh không lo chôn cất.  Ôi ác thay! Bây giờ ra sao?”

“ Sống đã làm ngơ, chết không đoái hoài, xác bắt đầu thối rữa,”  Má Má cất tiếng hát.

Chúng tôi lại hát khúc hợp xướng quen thuộc.  “ Người anh cả cho một miếng vải để phủ xác, Anh thứ hai cho hai miếng vải.  Anh thứ ba lấy hết vải ra liệm để ấm người nàng khi sang cõi âm.”

“ Một nàng kia có ba người anh,” Thím hát tiếp.  “ Mặc áo âm hồn, nhưng anh không mua hòm.  
Tuy nàng đoan chính và siêng năng nhưng ba anh hà tiện.  Ôi thật bất công! Bao giờ được yên nghỉ?”

“ Cô đơn vò võ,” Má Má hò, “ Nàng chờ ngày hiện ra.”

Thím lấy ngón tay chỉ từng chữ một và chúng tôi cố đọc theo mặc dù có nhiều chữ vẫn chưa đọc được.  “ Người anh cả nói,`cần chi quan tài, như vậy được rồi.`  Anh thứ hai nói ` có cái hộp cũ trong xó, lấy ra mà dùng.` Anh thứ ba nói ` Có bao nhiêu tiền tôi sẽ đi mua hòm.`”

Khi gần đến đoạn cuối, Thím hò, “ Một nàng kia có ba người anh.  Họ đi đã xa, nhưng còn cô em thì sao?  Anh cả--tánh tình ác độc; Anh thứ hai--trái tim chai đá; nhưng tình người anh thứ Ba có thể vượt qua.”

Các bà chị để Diễm Nguyệt và tôi hát nốt đoạn kết.  “ Anh cả nói, `chôn nó nơi đây, cạnh lối trâu đi.  Anh thứ hai nói ` chôn nó dưới cầu.`  Nhưng anh thứ ba--tâm địa tốt lành--nói, `ta sẽ chôn em ngay sau nhà, để còn nhớ mãi.` Cuối cùng, nàng em gái, sống trong đau buồn, nhưng khi chết lại sung sướng.”

Tôi yêu câu chuyện này vô cùng.  Hát hò với Má Má và mấy người khác tuy vui thật, nhưng kể từ khi bà và em mất đi thì tôi thấy thấm thía ý nghĩa của bài hát hơn.  Giá trị của một người con gái--hay đàn bà--có thể truyền từ người này sang người kia.  Nó cũng dạy ta bài học thực tế cách lo chuyện hậu sự cho người thân yêu--phải chuẩn bị xác như thế nào, quần áo tẩm liệm cho đời sau như thế nào là phải, phải chôn ở đâu.  Gia đình tôi đã cố làm theo nghi thức, và tôi cũng sẽ làm vậy, một khi đã làm vợ, làm mẹ.



Sau Ngày Chọi Trâu thì bà Vương trở lại.  Tôi bắt đầu chán ghét những lần bà đến thăm, vì mỗi lần như vậy là cả nhà phải lo lắng.  Dĩ nhiên cả nhà vui mừng là anh Cả và chị Lớn sắp yên bề gia thất và nhà tôi rồi sẽ có dâu cả.  Nhà tôi mới vừa có hai cái tang lại phải lo cho hai đám cưới.  Áp lực tôi phải lấy chồng cho ra gì mang thêm một ý nghĩa mới.  Đó là chuyện sống còn.

Bà Vương lên gác, lịch sự khen mũi thêu của chị Lớn đẹp và khéo.  Rồi bà ngồi xuống ghế đẩu dựa lưng vào cửa rèm.  Bà không nhìn về hướng tôi.  Má Má giờ là người đàn bà vai vế cao nhất nhà, ra dấu cho Thím pha trà.  Trong khi chờ đợi, bà Vương nói chuyện nắng mưa, chuyện lễ hội chùa sắp tới, và chuyện chuyến hàng vừa đến trên sông Quế Lâm.  Sau khi trà rót ra xong suôi thì bà Vương mới bắt đầu vào đề.

“ Quí mẫu,” bà bắt đầu,  “ Trước đây mình có bàn về những cơ hội mở ra cho cháu gái.  Chuyện hôn nhân với một gia đình tốt ở làng Tùng Khẩu coi như đã chắc chắn.”  Bà cúi người tới trước và giãi bày, “ Tôi đã có nơi để ý.  Trong vài năm nữa tôi sẽ đến thăm ông bà để lo chuyện Dạm Hỏi.”  Bà ngồi thẳng dậy, dặng hắng.  “ Nhưng hôm nay tôi đến đây để đề nghị một chuyện khác.  Chắc quí vị cũng nhớ ngày đầu gặp gỡ, tôi thấy Bach Hợp có cơ hội để làm lão đồng. “  Bà Vương đợi cho lắng xuống rồi mới nói tiếp.  “ Làng Tùng Khẩu đàn ông đi thì bốn mươi lăm phút tới.  Dân ở đó đa số là người họ Lỗ.  Có một người trong giòng họ có lẽ thích hợp với Bách Hợp.  Tên cô bé đó là Tuyết Hoa.”

Câu hỏi đầu tiên của Má Má cho tôi và mọi người thấy là không những bà đã không quên mà đã suy nghĩ và có kế hoạch về chuyện này.

“ Thế còn vấn đề bát tự ?” Má má hỏi, giọng nói ngọt ngào không che dấu nổi lòng quả quyết.
“ Tôi không thấy có lý do kết bạn trừ phi bát tự đề huề.”

“ Mẫu mẫu, nếu bát tự không hợp thì đời nào tôi lại đến đây,” Bà Vương trả lời bằng giọng đều đều.  “Bách hợp và Tuyết Hoa sanh cùng năm con ngựa, cùng tháng, và nếu điều hai bà mẹ nói tôi là trúng, thì cùng cả ngày lẫn giờ luôn.  Bách Hợp và Tuyết Hoa có cùng số anh trai và chị em gái, và cả hai đầu là con thứ ba--”

“ Nhưng--”

Bà Vương đưa tay lên ngăn, không cho nói tiếp.  “ Trả lời luôn, trước khi bà hỏi: Có, đứa con gái thứ ba nhà họ Lỗ cũng đã đi về chầu tổ tiên rồi.  Chi tiết không thành vấn đề, chẳng ai muốn nhắc nhở về cái chết của một đứa con, cho dù chỉ là đứa con gái.”   Nói xong bà trừng mắt nhìn mẹ.  Khi Má Má nhìn sang chỗ khác, bà Vương tiếp tục.  “ Bách Hợp và Tuyết Hoa cao bằng nhau, đẹp như nhau, và, quan trọng hơn hết, bó chân cùng ngày.  Đời ông cố của Tuyết Hoa thi đậu tiến sĩ, do đó giai cấp có sự cách biệt.”  Bà Vương chẳng cần nói cũng biết.  Người ta đã có người có bằng tiến sĩ thì đương nhiên phải khá giả.  “ Tuyết Hoa có vẻ không màng chuyện cách biệt vì hai đứa có quá nhiều điểm tương đồng.”

Má Má tuy gật đầu, có vẻ thản nhiên như không có gì, nhưng trong đầu đang suy nghĩ tính toán.   Còn tôi thì chỉ muốn chạy ù xuống bờ sông và hét to lên vì sung sướng.  Tôi liếc nhìn Thím, tưởng là đang cười toe toét, nhưng thím vẫn cố ngậm miệng để che dấu sự vui mừng.  Còn Diễm Nguyệt và chị Lớn thì ánh mắt long lanh vì vui sướng giùm tôi.

“ Thường thì tôi đến vào dịp Trung Thu khi mấy co bé được tám chín tuổi,” Bà Vương nói,  
“ Nhưng trường hợp này tôi thấy cho làm bạn ngay có lợi cho con bà.  Cháu nó có nhiều ưu điểm, nhưng còn phải học hỏi thêm về nữ công thì mới có thể thích hợp được với một gia đình danh giá.”

“  Con tôi như vậy, biết sao giờ,” Má Má nói hững hờ.  “ Nó bướng bỉnh và cứng đầu.  Tôi thấy vụ này không ổn.  Chẳng thà ương ương dở dở trong đám bạn gái kết nghĩa còn hơn không xứng đáng để xấu hổ với một tiểu thư đài các. “

Tôi thấy mình như chợt hụt hẫng vì dù ở với mẹ từ bé, nhưng vẫn chưa đủ lớn khôn để hiểu những mánh khoé trong việc điều đình thương lượng.  Tự hạ mình xuống bây giờ để khỏi nghe gia đình lão đồng hay nhà chồng chê bai sau này.  Hơn nữa nó còn có thể bớt giá phải trả cho bà mối và của hồi môn.

Bà mối không hề nao núng.  “ Bà nói thế cũng phải.  Tôi cũng đã nghĩ đến những điều này chứ không phải là không.  Nhưng thôi.  Hôm nay nói vậy cũng đủ rồi.”  Bà ngừng lại như để ngẫm nghĩ, nhưng thực ra ai chả biết là nhất cử nhất động của bà đều đã được tính toán một cách kỹ lưỡng trước rồi.  Rồi bà lấy từ trong tay áo ra một cái quạt, và gọi tôi lại.  Trong khi bà đưa quạt cho tôi thì bà nói với mẹ tôi.  “ Bà cần có thì giờ để suy nghĩ về số phận của con gái bà.”

Tôi mở quạt ra, nhìn vào hàng chữ chạy dọc theo nếp quạt và ngắm nghía vòng lá tô điểm bên trên.
Mẹ tôi nói với bà mối bằng một giọng lạnh lùng.  “ Bà đưa cho con gái tôi mặc dù chúng ta chưa hề thỏa thuận về vấn đề tiền bạc?”

Bà Vương phẩy tay như đó là xú khí.  “ Đừng có lo.  Nghĩa gia không phải trả một đồng nào.  Việc hôn nhân cũng vậy.  Gia đình cô bé kia sẽ đài thọ hết.  Nếu nhờ liên hệ lão đồng mà giá trị con gái bà tăng thêm, thì tiền sính lễ nhà trai trả sẽ hậu hỉ hơn.  Với tôi thế là đủ rồi.”

Bà đứng lên, đi vài bước về phía cầu thang, rồi quay lại đặt tay trên vai Thím và nói với mọi người, “ Còn một điều nữa cũng nên nhắc đến.  Thím đây coi bộ cũng khéo dậy con, và ai cũng thấy là Diễm Nguyệt và Bách Hợp thân với nhau.  Nếu ta có thể chấp thuận liên hệ lão đổng cho Bách Hợp thì cơ hội lấy chồng ở Tùng Khẩu sẽ chắc chắn hơn.  Sao ta không tính đến chuyện kiếm chồng cho Diễm Nguyệt ở đó luôn một thể?”

Bà Vương đưa tay khum lại thành hình bán nguyệt. “ Dĩ nhiên, nếu quí vị đã nhờ bà Cao rồi thì tôi không dám xía vào dịch vụ địa phương của bà ấy”  --địa phương theo ý của bà Vương đồng nghĩa với thấp kém.  
Đến lúc này thì rõ ràng là khả năng thương lượng mẹ tôi không tài nào bì được với bà Vương được.  Bà Vương quay lại nói với Má Má.
“ Tôi nghĩ đây là chuyện do đàn bà chúng ta quyết định.  Dĩ nhiên phải cho ông nhà biết.  Tôi chỉ khuyên một câu.  Đợi tối lên giường rồi hãy năn nỉ.”

Trong khi Má Má và Thím tiễn bà Vương ra tới kiệu thì chị Lớn, Diễm Nguyệt và tôi ríu rít vì mừng rỡ.   Chị Lớn hất hàm về hướng cái quạt mà tôi vẫn đang cầm, hỏi.  “ Trong đó nó nói cái gì đó?” Tôi mở quạt ra.  Cả ba đứa chụm đầu vào cùng đọc nhưng chỉ hiểu lõm bõm vài chữ như:  thiếu nữ,  phẩm hạnh, nữ, bạn, tôi.  Khi Thím trở lại, bà  dò theo từng chữ, đọc to lên cho chúng tôi.  Tôi học thuộc lòng ngay tức khắc.  “ Tôi nghe nói có người con gái phẩm hạnh đoan chính mà lại còn giỏi nữ công, sống trong nhà bạn.  Bạn và tôi sanh cùng năm, cùng ngày.  Bạn có muốn làm lão đồng với tôi không?”
Trước khi tôi có thể trả lời Tuyết Hoa, Má Má và Thím cùng nhau bàn luận sôi nổi những điều lợi hại của liên hệ lão đồng trong khi chúng tôi nằm trên gác, áp tai nghe lén.    Mẹ tôi cũng không phải tay vừa, nhưng Thím lại có hiểu biết và xuất thân từ một gia đình khá hơn.  Tuy nhiên vì Thím vai dưới nên phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, nhất là vì bây giờ mẹ tôi đã nghiễm nhiên là người đàn bà có uy quyền nhất trong nhà.
 
“ Liên hệ lão đồng quan trọng chẳng kém liên hệ hôn nhân,”  Thím nói.  “ Lão đồng là một lựa chọn để có được một tình bạn thủy chung suốt đời.  Hôn nhân trái lại, không có sự chọn lựa và chỉ để có con trai.”

Ngay nhắc đến con trai thì Má Má cố an ủi em dâu.  “ Thím còn có con Diễm Nguyệt, nó vừa ngoan, lại còn---”

“ Nữa nó lấy chồng thì nó bỏ mình mà đi.  Có con trai, còn có đứa ở suốt đời với mình, chị ơi.”

“ Nhưng nếu con Bách Hợp có lão đồng, thì sẽ không có bạn kết nghĩa.  Tất cả đàn bà trong gia đình mình---”
---ý Má Má muốn nói là `cũng đều có chị em kết nghĩa` nhưng Thím đỡ lời theo ý khác-- “ có thể làm chị em kết nghĩa với nó khi cần.  Nếu cần thêm người cho dịp Ngồi Hát Trên Lầu trước lễ thành hôn thì mình có thể mời mấy con bé hàng xóm chưa chồng sang giúp.”

“ Mấy con bé đâu có thân đâu,” Má Má nói.

“ Thì còn có lão đồng.  Một khi hai đứa lấy chồng thì tụi nó gần gũi, thông cảm nhau hơn cả với chồng.  Bách Hợp có được cơ hội để đi theo một hướng khác chị em mình.  Cái liên hệ lão đồng này sẽ làm tăng giá trị của nó và cho dân làng Tùng Khẩu thấy nó xứng đáng về làm dâu làng họ.  Nó sẽ là một thiếu nữ gót sen xinh đẹp và đã chứng tỏ lòng chung thủy và còn biết viết nữ thư để làm lão đồng với một thiếu nữ làng họ.”


Và rồi cuối cùng thì gia đình tôi cũng đồng ý.  Má Má giúp tôi thêu một đôi hài để làm quà tặng nhưng bà không thể giúp tôi viết thư trả lời.  Thường thì thông điệp được ghi vào một cây quạt mới để sau này có thể dùng làm quà cưới, nhưng tôi muốn phá bỏ thông lệ này.  Nhìn vòng lá đan quện vào nhau trên cạnh quạt làm tôi nhớ đến lời người xưa, “ Đậu ván và đu đủ, dây thì dài, rễ lại sâu.  Cây cọ trong hoa viên rễ sâu nên ngàn năm đứng mãi. “  Tôi muốn muối liên hệ lão đồng của tôi cũng được như vậy.  Tôi muốn cây quạt này trở nên biểu tương của một tình bạn vững bền.

Tôi nhờ Thím giúp tôi viết câu trả lời bằng nữ thư.  Nếu đã phá lệ khi gửi quà thì thông điệp phải viết theo quy ước.  Thím viết ra và tôi tập cho đến khi nét chữ khả dĩ tạm được.  Xong xuôi, tôi mài mực trong nghiên rồi cầm thân bút bằng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa chấm vào mực.  Tôi bắt đầu vẽ một hoa tuyết bé tẻo teo giữa vòng lá trên cạnh quạt.  Rồi tôi chọn nếp quạt bên cạnh thư pháp đẹp của Tuyết Hoa để mà viết.  Tôi bắt đầu với câu mở đầu thông thường:

“ Tôi viết cho bạn.  Hãy lắng nghe tôi.  Dù tôi có nghèo và không lịch sự, dù tôi không xứng đáng với gia đình bạn, tôi vẫn viết để nói là chúng ta gặp nhau vì định mệnh.   Lời của bạn làm con tim tôi căng tràn.  Chúng ta là cặp vịt uyên ương.  Chúng ta là cây cầu trên sông.  Người ta sẽ ganh tị với tình bạn của mình.”

Dĩ nhiên đây chỉ là  những lời đầu môi chót lưỡi.  Chúng tôi mới lên bẩy tuổi mà lại chưa gặp nhau thì biết quái thế nào là tình bạn sâu đậm, thế nào là bền chắc mãi mãi.  Tôi xếp cái quạt và đôi hài thêu trên một miếng vải.  

Khi bà Vương thấy tôi viết trên quạt để gửi lại, thì thoạt tiên bà bỉu môi ra ý phản đối.  Nhưng sau một hồi lâu thì bà gật gù, “ Cái này đúng là thiên định.  Hai con lỏi này không chỉ bát tự giống nhau, mà còn tính tình giống in hệt nhau.  Chà chà, lạ à nha.”

Lối bà nói làm tôi hơi thắc mắc về Tuyết Hoa.  “ Đã đến lúc phải chính thức hóa liên hệ.  Tôi sẽ đưa chúng nó lên lễ hội chùa Khưu Phổ để ký bản ước thệ.  Xin bà đừng lo.  Tôi sẽ dàn xếp hết.  Không phải đi bộ đâu.”  Nói xong bà Vương túm bốn góc miếng vải, gói lại rồi mang đi đưa cho người lão đồng tương lai của tôi.

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------





5-  Tuyết Hoa

Thế là tôi đứng ngồi không yên mấy ngày sau đó.  Khi kiệu bà Vương xịch lại trước bực thì tôi đã tắm rửa sạch sẽ và mặc một bộ quần áo quê mùa giản dị.  Mẹ cõng tôi xuống nhà.  Tôi lo không biết Tuyết Hoa có thích mình không?  Bà Vương vén rèm cho tôi vào.  Tuyết Hoa đẹp hơn là tôi tưởng.  Mắt của nó hình quả hạnh, da nó trắng, chứng tỏ không phải dãi dầm nắng mưa như tôi.  Màn màu đỏ lấp lánh ánh hổng trên mái tóc đen.  Nó mặc áo chùng bằng lụa màu xanh da trời có thêu hình những đám mây.  Đôi hài tôi may cho nó lấp ló ra khỏi ống quần.  Nó không nói gì.  Có thể nó cũng run trong bụng như tôi.  Nó mỉm cười và tôi cười đáp lễ.

Chiếc kiệu chỉ có một chỗ nên ba người phải ngồi sát vào nhau.  Để giữ cho kiệu thăng bằng, bà Vương ngồi giữa.  Mấy người kiệu phu nhấc kiệu lên, và chẳng bao lâu thì chúng đã đi ngang qua cây cầu đưa ra khỏi Phổ Oai.  Bốn người kiệu phu cố chạy sao cho bớt lắc lư, nhưng phần vì rèm cửa khép kín, phần vì trời nóng, cộng thêm tâm trạng lo lắng và cái dập dình có nhịp điệu-- tôi thấy nhộn nhạo buồn nôn.  Tôi chưa bao giờ bước chân ra khỏi nhà, nên có ngó ra ngoài cũng chẳng biết mình ở đâu hay còn bao lâu nữa sẽ tới.  Ai mà chả nghe nói về Lễ Hội Chùa Khưu Phổ.  Hàng năm người ta lũ lượt kéo về vào ngày mồng mười tháng năm để xin có con trai.  Khi tôi bắt đầu nghe tiếng ồn ào--tiếng chuông leng keng của xe ngựa, tiếng kiệu phu quát tháo tránh đường, và tiếng mời chào của những người bán nhang, nến, lễ vật--thì tôi mới biết là mình đã tới.  

Kiệu ngừng lại và kiệu phu hạ xuống.  Bà Vương nói chúng tôi ngồi yên đấy rồi trèo ra ngoài.  Tôi đang nhắm mắt lại để dằn cơn khó chịu xuống thì một giọng nói cất lên.  “ May quá kiệu ngừng lại, chứ không đi một tí nữa thì thế nào tôi cũng sẽ mửa.  Rồi bạn sẽ còn xem tôi ra cái gì nữa đây hả?”

Tôi nhìn Tuyết Hoa.  Làn da trắng của nó đã chuyển sang màu xanh của tàu lá  nhưng đôi mắt đầy vẻ hiếu kỳ.  Nó rụt cổ, cười một cách tinh quái rồi vỗ miếng nệm bên cạnh, nói.  “ Coi xem bên ngoài có cái trò gì.”

Cả hai đứa chúng tôi đều cầm tinh con ngựa, có nghĩa là có máu phiêu lưu.  Nó nhìn tôi, thầm đánh giá mức độ gan dạ, mà, thú thật, không có mấy.  Tôi hít một hơi dài rồi nhích sang phía nó; nó kéo màn cửa sang một bên cho tôi thấy một cảnh quan kỳ thú.  Vải đủ màu đủ sắc bay phất phới từ  những gian hàng của người Dao.  Một nhóm nhạc công ăn mặc sặc sỡ , đang trên đường đi đến nơi trình diễn.  Một người đàn ông dắt con lợn đi lông rông.  Cứ vài giây lại có một cái kiệu chạy ào qua.  Đàn bà đi đầy đường--những chị em kết nghĩa lấy chồng phương xa, nay gặp lại trong ngày đặc biệt này.  Tất cả những hình ảnh sống động này hòa lẫn với một mùi vị thơm ngọt bay vào kiệu, dụ dỗ khứu giác và làm cồn cào bao tử.




“ Bạn đến đây bao giờ chưa?” Tuyết Hoa hỏi.  Khi tôi lắc đầu thì nó nói huyên thuyên tiếp.
“ Tôi đã đến đây với mẹ tôi nhiều lần.  Lần nào cũng vui.  Đi thăm chùa.  Không biết mình có thăm chùa hôm nay không? Chắc không, vì phải đi bộ nhiều.  Cầu sao mình được ra hàng khoai.  Mẹ lần nào cũng cho ăn.  Có ngửi thấy không? Lão Tá bán khoai ngon nhất vùng.  Này nhé: Lão cắt khoai ra thành cục rồi rán cho đến khi dòn bên ngoài nhưng mềm bên trong.  Rồi lão nấu đường trong một cái chảo tổ bố.  Có bao giờ được ăn đường chưa?  Không gì ngon bằng.  Rồi lão ngào khoai trong chảo đường cho đến khi bọc đều.  Rồi lão bỏ lên đĩa, dọn ra với một tô nước lạnh.  Khoai ngào đường nóng không thể tả.  Ăn ngay là phỏng miệng.  Thế là mình lấy đũa gắp lên, nhúng vào nước lạnh.  Rắc, rắc, rắc.  Tiếng kêu của đường khi cứng lại.  Khi mình cắn vào thì cái dòn của vỏ đường, cái cháy bên ngoài của khoai, rồi tới phần bên trong thơm mềm.  Dì không thể không cho mình ăn, đúng không?”
“ Dì?”
“ Ủa?  Biết nói à?  Tưởng chỉ biết viết mấy lời hoa mỹ thôi.”
“ Có thể không nói nhiều như bạn,” tôi trả lời nho nhỏ, cảm thấy hơi bị tổn thương.  Đàng nào thì nó cũng là cháu chắt của một ông nghè, chắc chắn phải biết nhiều hơn con gái của một bác nông phu.  Nó cầm tay tôi lên.  Tay nó khô và nóng.  “ Đừng lo, ít nói càng tốt.  Tôi có tật mở miệng mà không suy nghĩ nên bị la hoài, còn bạn, lúc nào cũng lựa lời mà nói, bạn sẽ là một người vợ lý tưởng.”    Mới ngày đầu mà đã hiểu nhau rồi.  Vậy mà vẫn phạm phải lỗi lầm trong tương lai.

Bà Vương mở cửa kiệu.  “ Đi thôi.  Xong hết rồi.  Chỉ đi mười bước là tới nơi.”

Chúng tôi đứng gần gian hàng giấy trưng bày cờ đuôi nheo màu đỏ, câu đối chúc phúc, chữ  song hỷ, và hình vẽ của thần nữ Khưu Phổ.  Đàng trước là một cái bàn xếp đầy hàng bán sặc sỡ.  Lối hai bên để khách đi vào gian hàng ngăn với bên ngoài bởi ba cái bàn dài.  Chính giữa là một cái bàn xếp đầy bút mực.  Bà Vương nói chúng tôi chọn giấy để viết lời ước thệ.  Như một đứa trẻ bình thường khác, tôi chỉ biết chọn những cái nhỏ nhặt như gắp miếng rau nào sau khi Ba Ba, Chú, anh Cả, và mọi người lớn khác đã nhúng đũa.  Giờ thì nhiều quá, không biết chọn cái nào, cái nào cũng muốn rờ, trong khi Tuyết Hoa, tuy mới bẩy tuổi rưỡi, đã biết suy xét chín chắn.

Bà Vương nói,  “ Mấy tiểu thư phải nhớ là hôm nay tôi bao hết.  Còn nhiều cái phải chọn nữa.  Đừng có mà xà lần lâu quá.”
“ Biết rồi Dì,” Tuyết Hoa trả lời cho cả hai.  Rồi nó hỏi tôi.  “ Thích cái nào?”
Tôi chỉ vào một tấm giấy to nhất, nghĩ là phải to mới thích hợp cho dịp quan trọng này.

Tuyết Hoa lấy ngón tay miết trên đường viền màu hoàng kim. “ Vàng này không tốt,” nói nói, xong cầm tờ giấy giơ lên ánh sáng.  “ Giấy mỏng như cánh gián.  Thấy ánh mặt trời rọi xuyên qua không?”  Nó đặt tờ giấy xuống bàn rồi nhìn tôi bằng ánh mắt tha thiết.  “ Phải tìm loại giấy nào có thể cho thấy mãi cái tình bạn quý báu và bền bỉ của chúng mình.”

Tôi chỉ hiểu loáng thoáng lời nó nói.  Giọng nó có hơi khác với thổ âm Phổ Oai, nhưng không phải chỉ vậy thôi.  Tôi tư chất thô sơ và đần độn trong khi nó lịch sự và tao nhã.  Và rõ ràng là những cái nó học ở nhà đã hơn hẳn tất cả những gì mà mẹ và thím tôi biết được.  

Nó kéo tôi vào trong gian hàng, thì thầm,  “ Họ luôn luôn dấu hàng tốt trong này.”  Rồi nó nói bằng giọng bình thường, “ Này, lão đồng, thấy cái này thế nào?”

Đây là lần đầu tiên có người hỏi ý kiến tôi, và khi tôi nhìn, Dù không  rành cũng có thể thấy được sự khác biệt.  Mảnh giấy trông nhỏ và ít loè loẹt hơn.

“ Thử coi,” Tuyết Hoa nói.

Tôi cầm lên và đưa lên mặt trời như Tuyết Hoa đã làm.  Tờ giấy dày đến độ chỉ thấy được một ánh đỏ mờ mờ.  

Chẳng nói chẳng rằng, chúng tôi đưa tờ giấy cho người bán hàng.  Bà Vương trả tiền rồi nói chúng tôi ra cái bàn chính giữa gian hàng để thảo lời thệ ước.  Tuyết Hoa và tôi ngồi đối diện.

“ Bao nhiêu cặp con gái đã từng ngồi đây để viết lời thệ ước?” Tuyết Hoa hỏi.  “ Mình phải viết hay nhất.”  Nó hơi chau mày hỏi.  “ Mình nên nói cái gì?”

Tôi nhớ lời mẹ và Thím đã đề nghị.  “ Mình là con gái, nên phải tuân theo ước lệ---”

“  Phải rồi,  mấy cái thông lệ,” Tuyết Hoa nói một cách thiếu kiên nhẫn.  “ Nhưng bạn không muốn lời thệ ước cho riêng chúng mình sao?”
Tôi hơi lúng túng; con lỏi này cái gì cũng rành rẽ.  Nó đến đây rồi; tôi thì chưa bao giờ bước chân ra khỏi nhà.  Nó biết muốn viết gì; tôi thì phải trông vào những điều mà mẹ và thím nghĩ là phải viết.  Đề nghị nào của tôi nghe cũng như một câu hỏi.
 
“ Hai đứa mình sẽ là lão đồng suốt đời? luôn luôn ngay thẳng? cùng nhau dọn gác?”

Tuyết Hoa ngó tôi bằng cái nhìn lúc còn trong kiệu.  Không biết nó nghĩ cái gì.  Bộ nói cái gì sai sao?  Hay cách nói không phải?

Một lúc sau nó cầm bút chấm mực.  Nó biết chữ viết tôi không bằng nó.  Khi viết xuống thì tôi thấy nó cũng nghe lời.  Tình cảm của tôi và ngữ pháp khéo léo của nó quyện hai đứa con gái lại thành một lời tâm nguyện.
Chúng tôi tin những giòng chữ viết trên mảnh giấy sẽ tồn tại mãi mãi, nào có ngờ được cơn lốc trong tương lai.  Tôi vẫn còn nhớ hết.  Đã ghi tâm khắc cốt thì sao có thể quên được?

“ Hai đứa tôi, Tuyết Hoa làng Tùng Khẩu và Bách Hợp làng Phổ Oai, nguyện sẽ muôn đời chung thủy, sẽ an ủi nhau bằng lời nói dịu dàng, sẽ chia đau xẻ buồn, sẽ thủ thỉ và cùng nhau thêu thùa.  Chúng tôi sẽ tuân phép Tam Tòng Tứ Đức.  Hôm nay chúng tôi cùng nhau dâng lời thệ ước.  Chúng tôi sẽ như hai giòng nước từ ngàn dặm chảy về một sông, hai đóa hoa hàng ngàn năm vẫn nở trong cùng ngôi vườn.  Không bao giờ cách biệt, không bao giờ nặng lời.  Chúng tôi sẽ là cùng xưa cho đến khi chết.  Nguyện xin được như vậy.”

Bà Vương nghiêm trang nhìn chúng tôi cùng ký tên bằng nữ thư dưới cuối trang.  “ Ta rất hài lòng với cặp lão đồng này,” bà tuyên bố.  “ Như hôn nhân chồng vợ, tử tế cặp với tử tế, đẹp cặp với đẹp, và thông minh cặp với thông minh.  Khác hôn nhân ở chỗ, liên hệ này chỉ có một.  Không được"---bà cười khanh khách---” có vợ lẻ.  Có hiểu không mấy cô bé?  Đây là hai trái tim nhập một mà cho dù xa cách, bất đồng, cô đơn, lấy chồng sang hèn, hay có bạn gái khác vẫn không thể tách biệt được.”

Chúng tôi đi vài bước tới kiệu.  Biết bao nhiêu tháng qua hễ đi đứng là đau đớn, nhưng phút này tôi thấy mình như Triệu Nương, nàng thục nữ chân nhỏ đầu tiên.  Người đàn bà trong huyền thoại nhẩy múa trên đóa sen như phiêu diêu trên chín tầng mây.  Mỗi bước đi của tôi êm như độn trong một niềm hạnh phúc tột đỉnh.  

Người khiêng kiệu mang chúng tôi đến giữa chợ.  Xa xa tôi thấy được bức tường màu đỏ được  khắc chạm và mái ngói xanh của ngôi chùa.  Bà Vương dúi cho mỗi đứa một đồng bạc để mua quà ăn mừng.  Cả đời tôi chưa bao giờ biết tiêu tiền là gì.  Một tay cầm tiền, tay kia nắm tay Tuyết Hoa mà trong lòng thì không biết mua cái gì.  

May saoTuyết Hoa lại dẫn đầu.  “ Biết mua cái gì rồi.” Nó ré lên rồi tính chạy nhưng ngừng lại kịp thời.  “ Quên mất cái chân,” nó nói, mặt nhăn lại vì đau đớn.
“ Cứ đi từ từ,” tôi nói.  “ Không bắt buộc phải xem hết---”
“---vì mỗi năm mình lại trở lại đây nữa.”  Tuyết Hoa tiếp lời rồi bóp nhẹ bàn tay tôi.

Trông chúng tôi chắc tức cười lắm:  hai đứa lão đồng đi chơi lần đầu, chân thì khập khiễng chỉ chực té, và một bà già ăn mặc diêm dúa chạy theo la lối.  “ Nghịch ngợm nữa là đi về bây giờ.”  May cái là không phải đi xa.  Tuyết Hoa lôi tuột tôi vào hàng bán đồ thêu thùa.  

“ Chúng ta sẽ đến thăm nhau, cùng thêu thùa, tán gẫu.”  Tuyết Hoa miệng nói nhưng mắt lướt nhìn những cuộn chỉ muôn mầu muôn sắc.  “ Nếu mình khéo mua thì có thể thêu dệt biết bao kỷ niệm cho tới ngày đi lấy chồng.”

Trong hàng chỉ, chúng tôi có ý thích giống nhau.  Sau khi chọn xong, chúng tôi đưa tiền cho người bán hàng rồi trở lại kiệu.  Vào trong kiệu rồi Tuyết Hoa mới nài nỉ bà Vương thêm một món quà.  
“ Dì ơi, cho tụi con đến ông hàng khoai đi.  Được không?”  Tôi tưởng Tuyết Hoa gọi bà Vương là dì chỉ để làm xiêu lòng nên tôi cũng chõ miệng vào.  “ Làm ơn đi, dì ơi.”  Bà Vương làm sao có thể từ chối hai đứa con gái mỗi đứa nắm một tay áo nài nỉ như mình là con trai cầu tự không bằng.

Cuối cùng bà cũng phải chiều theo nhưng nói vớt vát.  “ Ta chỉ là một goá phụ nghèo, và tiêu tiền cho hạng con gái vô dụng như chúng bay chỉ tổ mất thể diện.  Chúng mày có muốn ta chết một thân một mình, không tiền không bạc không?”  Tuy nói vậy bằng một giọng nghiêm khắc nhưng khi đến hàng ăn thì mọi sự đã sẵn sàng chờ đón.  Một cái bàn con với ba thùng gỗ thay cho ghế đã được sắp sẵn.  

Chủ quán mang ra một con gà còn sống và dơ lên.  “ Bao giờ tôi cũng chọn gà ngon nhất cho bà Vương,”  Lão Tá nói.  Vài phút sau lão mang ra một cái cù lao dưới có chất sẵn than hồng.  Bên trong nồi, nước dùng với hành lá, gừng, và gà thái lát đang sôi sùng sục.   Nước chấm gồm gừng băm, tỏi giã nhuyễn, và dầu nóng được đặt trên bàn.  Thêm vào đó là một đĩa rau đậu hà lan xào tỏi.  Chúng tôi ăn uống ngon lành, lấy đũa tìm gắp miếng gà ngon nhất, nhai rau ráu rồi nhổ xương xuống đất.  Cho dù ngon thật, nhưng tôi vẫn để bụng cho món khoai mà Tuyết Hoa nhắc đến.  Đúng như lời nó nói---đường nóng kêu răng rắc khi nhúng vào nước, dòn tan trong miệng.

Như ở nhà, tôi cầm bình trà rót cho cả ba người.  Khi đặt ấm xuống, tôi nghe tiếng Tuyết Hoa chậc lưỡi như quở trách.  Tôi đã làm gì sai nhưng không biết là cái gì.  Nó cầm tay tôi xoay ấm trà để vòi không hướng về phía bà Vương.

“ Chĩa vòi ấm vào người khác là vô lễ,” Tuyết Hoa nói nhẹ nhàng.

Thay vì xấu hổ thì tôi chỉ cảm thấy phục người bạn lão đồng của tôi.

Khi chúng tôi trở lại thì mấy người kiệu phu đang nằm ngủ dưới chân kiệu.  Bà Vương vỗ tay đánh thức họ và chẳng bao lâu chúng tôi lên đường về nhà.  Lượt về bà Vương cho hai đứa ngồi chung làm kiệu lệch sang một bên, khó khiêng hơn.  Nghĩ lại chỉ thấy hai đứa còn quá bé-- hai đứa con gái khúc kha khúc khich, lựa chỉ, nắm tay, thỉnh thoảng nhìn ra ngoài trong khi bà Vương ngủ gà ngủ gật. Lần này chúng tôi không còn cảm thấy buồn nôn như bận đi.  

Đấy là chuyến đi Xá Hạ và chùa Khưu Phổ đầu tiên.  Sau đó bà Vương mang đi dâng cúng mỗi năm, đến khi lấy chồng mới thôi.  Sau này chúng tôi khi nào có dịp là tìm gặp nhau tại Xá Hạ để xin được con trai, lần nào cũng ghé mua chỉ thêu, lần nào cũng nhắc lại kỷ niệm của lần đầu, và lần nào cũng ghé lại hàng Lão Tá để ăn món khoai bọc đường xén.  

Chiều tối thì về tới Phổ Oai.  Tôi không muốn ngày tàn dù biết về tới nhà là hết .  Tôi nghĩ họ sẽ thả xuống để rồi một mình đứng nhìn kiệu phu mang Tuyết Hoa đi xa dần, chỉ còn một ngón tay thò ra ngoài rèm cửa, ngúc ngoắc chào.  Nhưng cuộc vui chưa hết.  

Kiệu ngừng cho tôi xuống.  Bà Vương nói Tuyết Hoa đi ra.  “ Chào các con.  Vài ngày nữa ta sẽ đến đón Tuyết Hoa.”  Bà thọc đầu ra khỏi kiệu, bẹo má con lão đồng của tôi rồi nói thêm,
“ Ngoan nhé.  Đừng có than.  Mở mắt mở tai ra mà học để mẹ con hãnh diện.”

Làm sao diễn tả được tâm trạng của tôi lúc hai đứa đang đứng ở ngưỡng cửa?  Tôi nửa mừng nửa lo.  Tuyết Hoa quen ăn sung mặc sướng rồi bây giờ ở đây không biết ra sao.  Mà đâu thấy nó mang quần áo gì theo đâu.  Má má bước ra đón.  Bà hôn tôi một cái, rồi choàng tay lên vai con Tuyết Hoa đưa vào nhà.  Gian phòng chính đã được dọn dẹp.  Rác rưởi sạch sẽ, quần áo treo lên, và đĩa chén cất đi.  Sàn nhà bằng đất nện đã được quét và rảy nước cho mát.  

Tuyết Hoa gặp mọi người.  Khi cơm nước dọn ra, Tuyết Hoa chấm đôi đũa vào tách nước trà để rửa.  Ngoài cái cử chỉ nhỏ đó ra thì nó cố ra vẻ bình thường.  Nhưng tôi biết trong bụng, Tuyết Hoa hơi gớm ghiếc lối sống gia đình tôi.  

Cả hai đứa mệt nhoài sau một ngày dài.  Khi đến giờ lên gác tôi lại lo, nhưng khăn giường đã được phơi cho hết mùi và tất cả đồ đạc bề bộn đã được xếp lại gọn gàng.  Má Má mang lên thau nước để rửa ráy với  hai bộ quần áo, một bộ của tôi và một bộ của chị Lớn---đã được giặt giũ sạch sẽ--để Tuyết Hoa mặc khi ở đây.  Tôi nhường cho Tuyết Hoa rửa ráy trước nhưng nó chỉ nhúng ngón tay vào vì, có lẽ nó ngờ nước không được sạch.  Nó cầm bằng hai ngón tay bộ quần áo ngủ tôi đưa, như đó là một con cá ươn thay vì là bộ quần áo mới nhất của chị Lớn.  Nó nhìn quanh, thấy chúng tôi đang nhìn nó, rồi chẳng nói chẳng rằng, mặc ngay bộ quần áo vào.  Chúng tôi trèo lên giường.  Khi Tuyết Hoa ở đây thì chị Lớn ngủ với Diễm Nguyệt.

Thế là hai đứa nằm cạnh nhau, đắp chung một tấm chăn mỏng.  Tuy mệt nhưng chúng tôi không ngừng rủ rỉ rù rì.  Tuyết Hoa hỏi về gia đình tôi; tôi hỏi về gia đình nó.  Tôi kể nó nghe cái chết của con Bé Ba.  Nó nói em thứ ba của nó chết bệnh ho.  Nó hỏi về làng tôi và tôi nói Phổ Oai, tiếng địa phương có nghĩa là Làng Đẹp Thường.  Nó giải thích Tùng Khẩu có nghĩa là làng Miệng Cây, sang thăm thì sẽ hiểu.  


Ánh trăng rọi qua khe cửa sổ, chiếu rọi khuôn mặt Tuyết Hoa.  Chị Lớn và Diễm Nguyệt đã ngủ say nhưng tôi và Tuyết Hoa vẫn tiếp tục nói chuyện.  Là đàn bà, chúng tôi bị cấm không được nói chuyện bó chân kẻo không đàn ông lại nổi máu dâm.  Nhưng chúng tôi là gái đang còn bó chân, còn đau còn đớn.  Đâu phải chỉ là kỷ niệm như bây giờ.  Tuyết Hoa kể chuyện nó trốn mẹ chạy vào năn nỉ bố.  Tí nữa thì cha nó đã ưng thuận, và mặc nhiên sẽ chôn đời nó làm gái già ở nhà hay đi làm đầy tớ nhà khác.   

“ Nhưng khi ông ấy hút vào rồi, ” Tuyết Hoa giải thích,” thì quên hết  lời hứa.  Thế là mẹ và dì tôi lôi tôi lên lầu cột vào cái ghế.  Đó là lý do tại sao tôi cũng bó chân trễ một năm giống như bạn.”  
Tuy số phận kể như đã bị định đoạt nhưng  nó đâu có chịu thua.  Trong những tháng đầu nó vùng vẫy, có lần tháo tung hết cả băng chân.  “ Mẹ tôi trói tôi vào ghế chặt hơn rồi băng chân lại.”

“ Số trời đã định,” tôi nói.  “ có cưỡng lại cũng không được.”

“ Mẹ tôi cũng nói vậy.”  Tuyết Hoa nói.  “ Bà ấy chỉ cởi trói để bắt đi cho chân gẫy hay khi phải đi tiêu đi tiểu.  Suốt ngày tôi ngồi tựa cửa ngắm nhìn chim bay, mây trôi, và trăng đầy lại khuyết.  Biết bao cái xảy ra bên ngoài làm tôi quên đi những gì xảy ra bên trong cái phòng đó.”

Những điều nó nói làm tôi kinh sợ.  Tuyết Hoa có cái tính độc lập của người tuổi ngựa, chỉ có khác là ngựa nó có cánh bay xa khỏi mặt đất, còn ngựa tôi là ngựa đi lọc cọc.  Nhưng trong tận cùng của tâm khảm, tôi cảm thấy có một cái gì muốn chống đối, muốn phá tung những ước lệ của định mệnh.  Một cảm giác mà dần dà đã trở thành một nỗi khát khao.  

Tuyết Hoa rúc người vào gần để hai cái mặt kề sát.  Nó đặt tay lên má tôi và nói, “ Tôi vui mừng vì mình là lão đồng.”  Rồi nó nhắm mắt lại ngủ.

Nằm nên cạnh nó, nhìn mặt nó dưới ánh trăng, cảm thấy bàn tay nó đặt trên má, nghe tiếng nó thở đều, tôi tự hỏi làm sao có thể làm nó yêu mình như mình muốn được yêu.  




TUYẾT HOA VÀ CÂY QUẠT BÍ MẬT

6- Tình Yêu

Con mang nặng đẻ đau thì ai chẳng yêu, nhưng nếu là con gái thì vẫn thất vọng. Yêu con gái đến mấy vẫn phải chuẩn bị nó đối diện với đau thương.  Yêu  con trai hơn hết nhưng không thể dự phần vào cuộc đời của nó, cái thế giới của đàn ông.  Phải yêu chồng từ lúc dạm hỏi, cho dù sáu năm sau mới được thấy mặt.  Phải yêu gia đình nhà chồng mặc dù về nhà người ta như một người lạ, vai vế thấp nhất, chỉ hơn đầy tớ có một bậc.  Phải kính yêu tổ tiên chồng và lễ nghi đầy đủ nhưng trong lòng chỉ thầm biết ơn ông bà tổ tiên của mình.  Yêu cha mẹ vì công ơn dưỡng dục dù chỉ là nhánh vô dụng trong cây gia hệ.  Con gái chỉ tổ hao tiền tốn của.  Nuôi lớn lên để thành con người ta.  Ở nhà tuy có sung sướng nhưng trước sau gì cũng phải đi.  Yêu gia đình dù biết rằng sẽ chấm dứt trong chia ly.  Tất cả những tình yêu này đến từ  bổn phận, lòng kính trọng, và biết ơn.  Phần lớn, như những người đàn bà xứ tôi đã biết, là nguồn gốc của đau buồn, tan vỡ, và tàn bạo.   

Nhưng tình yêu giữa một cặp lão đồng thì khác.  Như bà Vương đã nói, đó là một tình yêu có chọn lựa   Hai đứa tuy không hiểu hết những lời viết trên cây quạt, nhưng khi gặp nhau lần đầu thì tôi đã cảm thấy có gì đặc biệt--như lửa để chụm hay hạt giống để trồng.  Nhưng một tia lửa không đủ để sưởi ấm căn phòng và một hạt lúa không đủ thành mùa vụ.  Tình yêu sâu xa--tình yêu chân chính--phải đâm chồi nẩy lộc.  Hồi ấy hai anh em hay ngắm những ruộng lúa khi đi dọc bờ sông.  Biết đâu tình yêu sẽ nở rộ như hoa màu được vun xới -- bằng cần cù, bằng ý chí, và bằng ý trời.  Đến bây giờ vẫn còn nhớ.  Ái da.  

Thế là tôi bắt đầu công cuộc vun xới.  Hạt giống là những giòng nữ thư.  Bà  Vương là kênh dẫn thủy.  Khi bà ghé chơi thì tôi nhờ bà chuyển --lá thư hay một miếng khăn thêu-- tận tay tới Tuyết Hoa.

Không có nắng thì không có gì có thể mọc được.  Những lá thư hồi đáp là ánh sáng mặt trời.  Mỗi lần được thư là cả nhà xúm lại để cố giải đoán, vì hồi ấy mà nó đã dùng những chữ và hình ảnh mà cả thím tôi cũng phải moi óc mới hiểu được.  

Tôi viết kiểu con nít như: “Tôi khoẻ.  Bạn có khoẻ không? “  Nó trả lời:  “Hai con chim đậu trên cành cây rồi cùng nhau chắp cánh bay cao.”   Tôi viết: “ Hôm nay mẹ dạy tôi làm cơm nếp gói lá khoai.”  Tuyết Hoa viết lại: “ Hôm nay nhìn ra cửa sổ, tôi liên tưởng đến phượng hoàng bay lên trời, và tôi nghĩ đến bạn.”  Tôi viết: “ Đã chọn xong ngày lành tháng tốt làm đám cưới chị Lớn.”  Nó viết: “ Lệnh tẩu sắp sửa bước sang giai đoạn hai trong truyền thống hôn lễ.  May thay chị còn ở vớn bạn vài năm nữa.”  Tôi viết: “ Tôi muốn học hỏi thêm.  Bạn giỏi quá.  Bạn dậy tôi nhé?”  Nó viết lại: “ Tôi cũng đang học bạn.”  Tôi viết: “ Ý tôi nông cạn, lời tôi thô thiển, ước gì có bạn ở đây để ta cùng thủ thỉ.”  Nó trả lời: “ Hai con sơn ca cùng hót trong màn đêm.”

Lời của nó tuy làm tôi sợ nhưng phấn khởi.  Nó thông minh và có học.  Nhưng không phải vì thế mà sợ.  Thông điệp nào cũng nói đến chim, đến bay, đến một thế giới xa vời.  Ngay từ hồi đó, nó đã đi ngược lại những gì người ta đặt để.  Tôi muốn bám vào cánh nó để bay vút lên.

Một ngày kia bà Vương đến thăm, mang theo cây quạt.  Tôi không mở toang ra mà chỉ mở ba nếp đầu để thấy thông điệp đầu tiên của nó, câu trả lời của tôi, và một thông điệp mới trên nếp gấp thứ ba:

“ Nếu gia đình bạn khứng chịu thì tôi sẽ xuống thăm bạn vào tháng mười một.  Ta sẽ cùng nhau se chỉ luồn kim, chọn màu, và nói chuyện thầm thì với nhau. “

Trong vòng lá đã điểm thêm một nụ hoa dễ thương.  

Vào ngày hẹn tôi đợi bên khung cửa, ngóng trông bóng kiệu quẹo vào ngõ.  Khi kiệu ngừng trước cửa, tôi muốn chạy xuống nhà ra và ngoài để đón lão đồng của tôi nhưng không được.  Cánh cửa kiệu mở ra và Tuyết Hoa bước xuống.  Vẫn chiếc áo chùng màu xanh da trời có thêu vài cụm mây.  

Như thông lệ, nó không mang theo thức ăn hay quần áo,.  Bà Vương lập lại lời răn dạy như lần
trước.  Phải ngoan ngoãn, không được than, mở tai mở mắt ra mà học hỏi để mẹ hãnh diện.  Tuyết Hoa vâng vâng dạ dạ nhưng mắt mải nhìn lên cửa sổ trên gác để tìm tôi.

Má Má cõng Tuyết Hoa lên gác.  Vừa đặt chân xuống là nó bắt đầu nói không ngừng.  Nó lách chách, thầm thì, bỡn cợt, tâm sự, an ủi, ca tụng.  Nó nô đùa, khúc khích, và nói, nói, nói, nói, nói, nói, nói chuyện con gái.

Tôi bảo muốn học nên nó bắt đầu dạy tôi những điều trong Nữ Kinh, như không được cười nhe răng hay to giọng khi nói chuyện với đàn ông.  Ngược lại, tôi dạy nó cách làm bánh nếp.  Nó hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn về cách gánh nước và làm cám lợn.  Tôi phì cười vì con gái nào mà chẳng biết mấy chuyện đó.  Rồi mấy người khác xúm vào trêu tôi.

“ Mày mới là đứa không biết gánh nước.”  Chị Lớn nói to.
“ Chắc nó quên không biết cho lợn ăn thế nào,” Thím nói phụ họa.  “ Vất giầy cũ đi là quên hết ráo.”
Tức quá tôi đứng lên chống nạnh và trừng mắt nhìn họ, nhưng khi thấy những khuôn mặt tươi cười nhìn lại thì cơn giận tan biến và tôi muốn làm họ vui.
Tôi cà nhắc đi qua đi lại trên gác, giả đò kéo nước từ giếng lên rồi gánh về nhà hay lom khom nhổ cỏ.  Diễm Nguyệt cười nắc nẻ.  Ngay cả chị Lớn, vốn nghiêm trang, cũng lấy tay che miệng cười rúc rích.  Khi tôi nhìn qua thì thấy đôi mắt Tuyết Hoa sáng rỡ, hai tay chắp lại vì thích thú.  Bạn biết không, Tuyết Hoa là như vậy.  Nó có thể nói vài lời mà đã có thể khiến tôi làm những điều mà bình thường tôi không bao giờ làm.  Nó có thể bước vào một gian phòng đầy đau buồn và khóc than--và biến thành một ốc đảo vui đùa vô tư lự.

Nói người ta không được to giọng khi nói chuyện với đàn ông, thế mà trong bữa ăn thì nó thì bi bô với Ba Ba và chú cho họ cười bò.  Thằng Tiểu Đệ thì trèo lên người nó như khỉ trèo cây.  Sao mà Tuyết Hoa  lắm sinh lực thế tôi không biết.  Đi đến đâu người ta cũng mê, cũng vui.   Nó như một loài chim hiếm quý đã xổ lồng và giờ đang đi long rong trong sân với một bầy gà.  Chúng tôi lấy đó làm vui; nó cũng thế.  

Đã đến giờ phải rửa mặt đi ngủ, tôi nhớ lại cảm giác ngượng ngập lần thăm đầu.  Tôi ra dấu cho nó rửa trước nhưng nó không chịu.  Nếu tôi rửa trước thì nước sẽ bẩn.  Nó nói  “ MÌnh rửa cùng một lúc.”  Thế là chúng tôi chụm đầu vào thau rửa mặt.  Nó huých cùi chỏ vào mạng sườn tôi.  Tôi nhìn xuống nước, thấy hai cái mặt phản chiếu qua gợn nước lăn tăn.  Nó cười khúc khích, toé nước vào người tôi.  Lúc đó thì tôi biết lão đồng tôi cũng yêu tôi.  



7- Học Tập



Trong ba năm sau, cứ cách vài tháng là Tuyết Hoa đến chơi một lần.  Chiếc áo chùng màu xanh da trời có thêu những đám mây nhường chỗ cho một chiếc áo màu xanh nhạt có riềm trắng--một màu không mấy thích hợp với một cô bé.  Vừa bước chân vào phòng là nó cởi phăng ra rồi mặc bộ quần áo mẹ tôi làm cho nó.  Như vậy chúng tôi là cùng xưa từ trong ra tới ngoài.  

Tôi vẫn chưa bao giờ đến nhà Tuyết Hoa ở Tùng Khẩu.  Tôi không hề thắc mắc và cũng chẳng nghe gia đình bàn tán gì về chuyện này.  Có lần khi tôi lên chín, có nghe Má Má hỏi bà Vương.  

“ Ông nhà tôi nói sao cứ phải nuôi cơm con Tuyết Hoa hoài vậy?”  Má Má hạ thấp giọng để không ai nghe.  “ Rồi còn phải mất công kéo thêm nước uống, và còn nấu nướng, giặt giũ nữa.  Ổng muốn biết khi nào thì con Bách Hợp sang Tùng Khẩu chơi.  Phải theo đúng thông lệ chứ?”

“ Theo đúng Thông lệ thì tất cả bát tự phải xứng,” Bà Vương nhắc mẹ tôi, “ Nhưng bà và tôi đều biết là có cái không hợp.  Gia đình hai bên không được môn đăng hộ đối. “  Bà Vương ngừng lại, xong nói thêm, “ Hồi đó đâu nghe thấy bà than phiền gì.”

“ Phải rồi, nhưng--”

“ Rõ ràng là bà không hiểu vấn đề,” Bà Vương tiếp tục một cách tức giận.  “ Tôi đã nói bà ngay lúc đầu là tôi sẽ cố kiếm chồng cho con Bách Hợp ở Tùng Khẩu, nhưng cuộc hôn nhân sẽ chẳng thành nếu người ta lỡ thấy con gái bà trước ngày cưới.  Hơn thế nữa, gia đình con Tuyết Hoa đã phải chịu lép vì gia đình hai bên không cân xứng.  Họ không đòi đoạn tuyệt liên hệ lão đồng là may lắm rồi.  Dĩ nhiên nếu ông nhà muốn thì tôi vẫn có thể làm được.  Chỉ có hơn khó cho tôi thôi.”

Thế là mẹ tôi biết nói gì bây giờ, “ Bà Vương, tôi lỡ lời.  Mời bà đi vào nhà.  Bà dùng trà nhé?”

Bạn chắc thế nào cũng thắc mắc tôi cảm thấy gì khi nghe người ta nói gia đình chúng tôi không xứng? Tôi chẳng sao cả vì tôi biết mình không xứng với lòng yêu mến của Tuyết Hoa.  Tôi cố gắng mỗi ngày để nó yêu tôi như tôi yêu nó.  Tôi thấy tội nghiệp--không, thấy xấu hổ--cho mẹ tôi.  Bà đã mất thể diện trước mặt bà Vương.  Thành thật mà nói, tôi chẳng quan tâm đến cái lo của Ba, nỗi bực của mẹ, cái cứng đầu của bà Vương, hay khía cạnh vật chất của liên hệ giữa hai chúng tôi.  Cho dù tôi có thể sang Tùng Khẩu mà không sợ chồng tương lai thấy được, tôi cũng chẳng cần đi để tìm hiểu về đời sống của lão đồng tôi.  Nó đã kể hết cho tôi nghe về ngôi làng, gia đình, và căn nhà sang trọng của nó, chẳng cần phải xem làm gì.   Nhưng vấn đề không chỉ có thế thôi.

Bà Vương và Bà Cao luôn luôn tranh giành vùng ảnh hưởng.  Là bà mối cho vùng Phổ Oai, bà Cao đã dàn xếp đám cưới cho chị Lớn và kiếm được một cô gái xứng đôi cho anh Cả.  Bà ấy tưởng rồi cũng sẽ làm mối cho tôi và Diễm Nguyệt  nhưng nào ngờ bị bà Vương cuỗm tay trên.  Đúng là tiền sắp vào túi mà bị phỗng mất.  Người ta nói mấy người càng keo kiết thì càng thù dai.  

Thế là bà Cao sang Tùng Khẩu đề nghị làm mối cho Tuyết Hoa.  Chẳng bao lâu thì chuyện đến tai bà Vương.  Dù mối bất hoà không dính dáng đến chúng tôi nhưng cuộc đụng độ xảy ra tại nhà tôi khi bà Vương đến đón Tuyết Hoa và thấy bà Cao đang ăn hạt bí, bàn tính thủ tục Đưa Dâu trong phòng khách với Ba Ba.   Trước mặt Ba Ba thì không ai nói gì hết.  Hai bà không dám thô lỗ đến độ ấy.   Nếu bà Cao bàn xong rồi bỏ đi thì đã không cãi lộn.  Đàng này bà trèo lên gác, ngồi phệt xuống ghế, rồi bắt đầu khoe khoang tài mối mai của mình.  Như thò tay ngoáy vào ung nhọt.  Cuối cùng thì bà Vương chịu không nổi nữa.

“ Chỉ có mấy con chó cái động dục mới điên rồ đến độ sang làng tôi ăn cắp cháu tôi. “ Bà Vương phọt ra.

“ Tùng Khẩu chẳng phải là làng của bà đâu, lão di à,” bà Cao trả lời.  “ Nếu đó là làng của bà, sao lại sang Phổ Oai để đánh hơi? Nói như vậy thì Bách Hợp và Diễm Nguyệt phải là của tôi chứ.  Thế mà có thấy tôi khóc oe oe gì không?”

“ Tôi sẽ kiếm mối tốt cho chúng.  Cả Tuyết Hoa luôn.  Bà thì làm sao làm được.”

“ Chưa chắc đâu nhé.  Chị nó mà bà còn lo chẳng xong kia kìa.  Tôi mới là người thích hợp, nhất là trường hợp con Tuyết Hoa.”

Trong khi đó Tuyết Hoa ngồi ngay đó nghe họ nói như hai chị em nó là hai bao gạo rẻ tiền đang được trả giá bởi lũ con buôn vô liêm sỉ.  Nó đang đứng cạnh bà Vương chuẩn bị đi về, tay cầm miếng vải đã thêu.  Nó lấy ngón tay vò miếng vải, kéo dãn chỉ ra.  Nó không ngẩng đầu nhưng tôi thấy được mặt mũi nó đỏ như gấc chín.  Lúc ấy tuy cuộc tranh cãi chưa ngã ngũ nhưng bà Vương lấy bàn tay đầy gân xanh đặt nhẹ sau lưng Tuyết Hoa.  Trước đó tôi chưa hề thấy bà Vương có thể thấy tội nghiệp hay chịu thua ai bao giờ.

“ Tôi không thèm nói chuyện với hạng người rác rưởi, “ bà nói the thé.  “ Thôi đi thôi, Tuyết Hoa. Đường xá xa xôi.”

Chúng tôi cũng muốn quên chuyện này đi, như kể từ đó hai bà mối lúc nào cũng sẵn sàng phanh thây xé xác nhau.  Khi mà bà Cao nghe nói kiệu bà Vương đã đến Phổ Oai thì thế nào cũng ăn mặc thật sặc sỡ, đánh phấn tô son vào rồi rà rà đến nhà tôi như--hà, như chó cái động dục.



Khi Tuyết Hoa và tôi được mười một tuổi thì chân chúng tôi đã lành hẳn.  Chân tôi rắn chắc và trông đẹp tuyệt vời với chiều dài vừa đúng bẩy phân.  Chân Tuyết Hoa hơi to, trong khi chân Diễm Nguyệt còn to hơn nhưng có hình dáng quyến rũ.  Hơn nữa, Diễm Nguyệt lại còn giỏi nữ công gia chánh nên dễ kiếm chồng.  Bó chân đã xong xuôi nên bà Vương bắt đầu thủ tục Dạm Hỏi cho cả ba đứa chúng tôi.   Bát tự của chúng tôi xứng hợp với chồng tương lai và ngày đám hỏi được sắp xếp.  Đúng như lời bà Vương đã nói, nhờ đôi sen vàng lý tưởng mà tôi đã có một đám hứa hôn đầy hứa hẹn.   Bà đã thu xếp tôi về làm dâu gia đình họ Lỗ khá giả nhất Tùng Khẩu.  Chú chồng tôi là một học giả đỗ bằng tiến sĩ và được vua ban nhiều đất đai làm thái ấp.  
Lỗ thúc không có con cái, sống ở kinh đô và nhờ anh mình trông coi đất đai.  Vì cha chồng tôi là Tiên Chỉ của làng và cho tá điền thuê mướn đất đai nên ai cũng nghĩ là rồi chồng tôi sau này cũng lên làm Tiên Chỉ.  Diễm Nguyệt sẽ làm dâu một chi hệ họ Lỗ thấp hơn gần đó.  Người chồng sắp cưới của nó là con của một nông gia đất đai gấp bốn lần của Baba và Chú.  Đối với chúng tôi, thế là giàu lắm rồi, nhưng vẫn không bằng một góc của cải mà cha chồng tôi trông coi cho người em.  

“ Diễm Nguyệt, Bách Hợp,” bà Vương nói, “ Hai con chẳng khác nào chị em ruột như chị ta và ta trước đây.  Cả hai chúng ta đều lấy chồng người làng Tùng Khẩu.  Mặc dù cuộc đời chúng ta không ít lận đận nhưng đã có cái may mắn cả đời gần nhau. “   Mà thật vậy, Diễm Nguyệt và tôi cảm cảm thấy may mắn có thể tiếp tục chia xẻ tất cả, từ những ngày gạo-muối làm vợ làm mẹ cho tới giai đoạn tĩnh tọa của goá phụ.  

Tuyết Hoa phải lấy chồng làng khác, nhưng làng Kim Điền cũng không xa Tùng Khẩu mấy.  Bà Vương hứa là Diễm Nguyệt và tôi ngồi trên gác có thể nhìn thấy làng Kim Điền được.  Chúng tôi không biết nhiều về gia đình nhà chồng, chỉ biết là người chồng tuổi con gà.  Chúng tôi hơi lo vì ai chẳng biết con gà muốn ngồi trên lưng ngựa.  

“ Mấy con đừng có lo,” bà Vương an ủi.  “ Ông thầy đã nghiên cứu ngũ hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ hết rồi.  Đây không phải là trường hợp thủy hỏa phải chung sống đâu.”

Gia đình nhà chồng chúng tôi bắt đầu gửi quà sêu gồm tiền bạc, bánh kẹo, và thịt thà.  Chú thím được một miếng chân giò, còn Má Má và Ba Ba nhận được nguyên một con lợn quay.  Ba Má chặt ra rồi cho người mang biếu họ hàng trong làng.  Cha mẹ chúng tôi gửi lại trứng và gạo tượng trưng cho sự mắn đẻ.  Rồi chúng tôi chờ giai đoạn kế tiếp, khi nhà trai Chọn Ngày Lành Tháng Tốt làm đám cưới.

Không thể tưởng tượng được nỗi vui sướng của chúng tôi.  Tương lai đã ổn định.  Gia đình thông gia khá giả.  Và chúng tôi vẫn còn trẻ nên tin là hễ cứ có thiện tâm thì có thể vượt qua hết, kể cả mẹ chồng.  Chúng tôi bận bịu thêu thùa và cảm thấy hạnh phúc vì có nhau.
Thím vẫn dạy nữ thư nhưng chúng tôi cũng học của Tuyết Hoa, mỗi lần nó đến lại mang theo vài chữ mới.  Có chữ nó học lén của anh nó, vì nữ thư là một dạng giản thể của chữ đàn ông, cũng có nhiều chữ nó học của mẹ nó, một người rất giỏi về loại chữ viết đặc biệt của phái nữ chúng tôi.  Chúng tôi bỏ ra hàng giờ học tập, dùng ngón tay đồ theo trên bàn tay của nhau.  Thím lúc nào cũng căn dặn phải cẩn thận, vì nữ thư đặt căn bản trên ngữ âm thay vì tượng hình như chữ đàn ông, nên ý nghĩa có thể bị hiểu nhầm.  

“ Chữ nào cũng phải hiểu theo bối cảnh của nó,” hôm nào học xong thím cũng nhắc nhở.  
“ Biết bao bi kịch đã xảy ra chỉ vì hiểu nhầm.”  Răn dạy xong, Thím thưởng cho một câu chuyện lãng mạn về người đàn bà trong vùng đã sáng tạo ra chữ viết bí mật của chúng tôi.

“ Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa, vào đời nhà Tống hơn ngàn năm trước đây,”  bà kể, “ Vua Tống Triết Tôn đi khắp vương quốc để tìm tiểu thiếp.  Rồi một ngày kia ngài đến huyện ta vì nghe nói có người nông gia họ Hồ là người có học, sống ở làng Kim Điền-- phải rồi, làng Kim Điền, làng nhà chồng tương lai của Tuyết Hoa.   Hồ lão có một người con trai học giỏi, đỗ đạt làm quan, nhưng nhà vua chỉ để ý cô con gái cả tên là Ngọc Tú.  Nàng được cha dạy nên không những biết đọc biết viết mà cổ thi cũng tinh thông. Nàng còn có tài múa hát.  Nhà vua ghé thăm Hồ gia hỏi lấy con gái ông về làm thiếp, và thế là chẳng bao lâu thì Ngọc Tú chuẩn bị lên đường về kinh.   Tuy gia đình được nhà vua trọng thưởng và nàng sẽ sống một đời sống nhung lụa, nhưng Ngọc Tú không khỏi xót xa vì từ nay phải vĩnh viễn cách biệt gia đình.“

Đoạn này thì chúng tôi đã thuộc nằm lòng.  Chia tay gia đình mới chỉ là bước đầu trong cuộc đời gian khổ của nàng.  Tuy có tài nhưng nàng đâu thể làm vua yêu mãi.  Ngài bắt đằu chán khuôn mặt trăng rằm, đôi mắt hạt dẻ, và cặp môi anh đào của nàng, còn tài múa hát--có nổi tiếng ở vùng Vĩnh Minh thật--nhưng so với các cung nữ khác thì chẳng thấm vào đâu.  Tội nghiệp cho Ngọc Tú.  Nàng buồn rầu cô đơn nhưng không có cách nào liên lạc với mẹ và em.  Lộ ra là có thể bị chém đầu hay đẩy xuống giếng sâu trong cung như chơi.

“ Ngày đêm, Ngọc Tú vẫn âm thầm chịu đựng,”  Thím tiếp tục.  “ Đám thái giám và cung nữ hiểm độc ngấm ngầm theo dõi trong khi nàng thêu thùa hay trau giồi thư pháp.  Chúng chế diễu nét bút của nàng.  “ Chữ viết luộm thuộm thế mà cũng bày đặt,” chúng nói.  “ Đúng là khỉ nhà quê bắt chước viết chữ.”  Nhưng chúng nào biết chữ nàng viết nào phải hán tự thông thường.  Nàng đang cố thay đổi, viết xiên, viết yiểu điệu, để cuối cùng sáng chế ra thứ chữ không dính dáng đến chữ viết đàn ông.  Nàng đang sáng tạo một thứ mật mã để có thể gửi cho mẹ và em.”

Khi Tuyết Hoa và tôi thắc mắc làm sao mẹ và em gái của Ngọc Tú có thể hiểu được mật tự thì Thím lồng thêm câu trả lời vào trong câu chuyện.

“ Có thể một hoạn quan thương tình nên lẻn mang một lá thư trong đó có chỉ dẫn cách đọc.  Hay có thể mấy cô em gái đọc không hiểu nên vất sang một bên, rồi một hôm nhìn xiên bỗng hiểu.  Rồi dần dà họ bắt đầu sáng tạo ra thêm.  Những chi tiết này không quan trọng.  Điều quan trọng là Ngọc Tú đã tìm ra cách để chia xẻ với không biết bao nhiêu là thế hệ phụ nữ sau đó. “

Chúng tôi ngồi yên lặng suy nghĩ về nàng cung nữ cô đơn.  Thím bắt đầu hò trước rồi ba đứa hò theo trong khi Má Má ngồi nghe.  Đó là một bài hát buồn, tương truyền do chính Ngọc Nữ hát.

“  Nước mắt từ trong tim chảy ra,
Làm nhoè nhoẹt giòng chữ viết.
Cuộc nổi loạn vô hình, để chuyện đời thành thiên bi kịch
Mẹ ơi, em ơi, có nghe được tiếng tôi không?”

Tiếng hát bay qua khe cửa, vang vọng dọc theo ngõ hẻm.  “ Các con phải nhớ là,” Thím nói.  
“ Không phải ai cũng là quân vương, nhưng hễ là con gái thì phải đi lấy chồng.  Ngọc Tú đã sáng tạo nữ thư để phụ nữ vùng ta còn có cách liên lạc với gia đình.”

Chúng tôi cầm kim thêu tiếp.  Hôm sau Thím lại kể chuyện lại.



Năm chúng tôi lên mười ba thì phải học  đủ thứ và đồng thời phụ giúp gia đình.  Tuyết Hoa được dạy phép lịch sự nhưng công việc nột trợ thì lại mù tịt.  Thế là khi tôi làm việc nhà thì nó lẽo đẽo theo sau.  Sáng sớm tinh sương là chúng tôi thức dậy chụm lửa.  Rửa chén đĩa xong thì trộn cám cho lợn ăn.  Đến trưa chúng tôi ra vườn hái rau; rồi nấu cơm trưa.  Trước đây Má Má và Thím làm công việc này.  Giờ họ đứng chỉ tay năm ngón.  Đến tối phải giúp thổi cơm chiều.

Rảnh giờ nào là phải học giờ đó.  Diễm Nguyệt khéo bện chỉ sợi, một công việc mà tôi và Tuyết Hoa không đủ kiên nhẫn để làm.  Tôi thích nấu nướng nhưng không thích dệt vải, khâu vá, và đan giầy.  Chẳng ai thích lau chùi nhưng Tuyết Hoa dở nhất.  Má Má và Thím không la rầy nó như la rầy tôi và em họ tôi khi quét dọn không sạch hay không giũ sạch áo chùng của cha.  Chắc họ dễ dãi với Tuyết Hoa vì biết rồi nó sẽ có kẻ ăn người làm, không phải đụng tay tới mất thứ đó.  Tôi thì nghĩ khác.  Nó không phải dọn dẹp vì nó ở trên mây, không dính dáng tới thực tế của cuộc đời.  

Chúng tôi học cả từ mấy người đàn ông trong gia đình, nhưng không phải như bạn nghĩ.  Ba và Chú không bao giờ dạy cái gì trực tiếp.  Nguyên tắc không cho phép như vậy.  Ý tôi muốn nói là chúng tôi hiểu đàn ông hơn xuyên qua hành động của Tuyết Hoa và phản ứng của Ba và Chú.  
Không nấu cái gì dễ bằng nấu cháo--chỉ việc bỏ gạo nước vào nấu lên, rồi ngoáy liên tục là xong-- nên chúng tôi để Tuyết Hoa nấu cháo để ăn sáng.  Tuyết Hoa đi quanh bàn, cúi đầu mời cháo cho Ba trước, rồi đến Chú, rồi anh Cả.  Nó đứng xa đủ để không gần gũi nhưng gần đủ để
tỏ vẻ lịch sự.  Vì nó để ý từng ly từng tí nên họ không ăn uống ngồm ngoàm, không gãi bụng sồn sột, nhổ xuống sàn.  Thay vì đó, họ tươi cười nói chuyện với nó.  

Điều tôi muốn học còn hơn cả những cái học trên gác, dưới nhà, hay nữ thư.  Tôi muốn biết về tương lai của mình.  May sao Tuyết Hoa được cái lắm mồm, nó nói đủ thứ chuyện về Tùng Khẩu.  Nó đã đi đi về về nhiều lần nên rành đường đi nước bước.  “ Khi về nhà chồng,” nó nói tôi, “ bạn sẽ đi ngang con sông và nhiều cánh đồng, bạn sẽ đi về hướng những ngọn đồi thấp mà từ Phổ Oai đã có thể thấy được.   Tùng Khẩu nằm giữa những ngọn đồi này, nhờ vậy mà tránh khỏi động đất, đói kém, và kẻ cướp.  Đó là một thế đất lý tưởng.”

Qua lời của Tuyết Hoa, Tùng Khẩu mỗi ngày một to hơn trong trí tưởng tượng của tôi, nhưng vẫn chưa bằng cảm tưởng của tôi khi nó nói về gia đình nhà chồng và người chồng tương lai của tôi.  Lúc bà Vương nói chuyện với cha chúng tôi thì Diễm Nguyệt và tôi không có mặt nhưng chúng tôi cũng biết sơ sơ.  Dân Tùng Khẩu toàn người họ Lỗ.  Cả hai gia đình đều khá giả.  Nhưng chúng tôi muốn biết thêm về chồng tương lai, về mẹ chồng, và những người đàn bà sống trên gác.  Chỉ có Tuyết Hoa có câu trả lời.

“ Bạn may mắn lắm Bách Hợp ạ,”  Tuyết Hoa nói.  “ Tôi đã thấy anh chàng họ Lỗ này rồi.  Anh ta có họ xa với tôi.  Tóc hắn đen nhánh.  Hắn dễ thương với con gái.  Có lần tôi với hắn ăn chung cái bánh trung thu.”  Nó nói chồng tương lai của tôi tuổi dần, mà tuổn dần thì hợp tuổi tôi.  Nó nói những điều phải biết để biết cách mà sống với nhà chồng.  “ Nhà đó đông người lắm,”  nó giải thích.  “ Lỗ đại gia là tiên chỉ nên khách khứa đến từ khắp nơi.  Bạn sẽ là con dâu cả.  Nếu có con trai thì càng nhiều thế lực.  Không có nghĩa là chồng sẽ không có thê thiếp bởi vì  
Lỗ thái thái đẻ được bốn người con trai, thế mà ông ấy vẫn có ba người thiếp.  Là tiên chỉ phải có thiếp cho nó xứng oai.”

Đáng lý phải lo vì cha nào con nấy nhưng tôi còn trẻ người non dạ nên không nghĩ tới.  Tuyết Hoa quay lại nói với Diễm Nguyệt đang ngồi im lặng chờ đợi.  “ Diễm Nguyệt, tôi biết rõ về gia đình chồng của bạn và tôi mừng cho bạn.  Chồng tương lai của bạn sanh năm con lợn.  Người tuổi lợn tính tình quả quyết, hào hiệp, và chín chắn, trong khi bạn tuổi dê nên sẽ say mê và chiều chồng.  Đây cũng là một cặp xứng đôi vừa lứa. “

“ Còn mẹ chồng tôi thì sao?”  Diễm Nguyệt ngần ngừ hỏi.

“ Lỗ thái thái này sang thăm mẹ tôi mỗi ngày.  Bà ta tốt bụng lắm.”

Bỗng nhiên mắt Tuyết Hoa trào lệ.  Tôi và Diễm Nguyệt cười khúc khích vì tưởng nó đùa.  Lão đồng của tôi vội chớp mắt.

“ Ma quỉ chui vào mắt tôi.”  Tuyết Hoa nói rồi cười phụ họa.  “ Diễm Nguyệt, bạn sẽ sung sướng.  Họ sẽ thương yêu bạn thực tình.  Nhất là bạn còn có thể đi một bước là sang đến nhà Bách Hợp.  Gần đến như vậy.”

Tuyết Hoa liếc nhìn sang phía tôi.  “ Mẹ chồng của bạn là người trọng phép tắc.  Ăn nói có chừng mực.  Khách đến, bao giờ cũng rót trà nóng.”  Tuyết Hoa đã dạy tôi ấy thứ này nên tôi không sợ. “ Người ăn người làm trong còn nhiều hơn người trong gia đình của tôi,” Tuyết Hoa nói tiếp. “ Bạn sẽ không phải nấu nướng, trừ một vài món đặc biệt cho Lỗ thái thái.  Bạn cũng không phải cho con bú.”

Tôi hỏi nó về cha chồng tôi.  Nó ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời.  “ Lỗ gia rất hào phóng và thương người, nhưng ông ta là tiên chỉ, có nghĩa là cũng phải giỏi giang.  Mọi người đều kính trọng ông ta, có nghĩa là cũng kính trọng con ông ta và bạn.”  Nó nhìn tôi bằng đôi mắt nhìn khó hiểu và nói, “ Bạn thật may mắn.”

KIến thức của tôi bắt đầu vượt qua khỏi lũy tre xanh.  Tôi đã cùng Tuyết Hoa đi lễ đền Khưu Phổ ở Xá Hạ năm lần.  Năm nào chúng tôi cũng trèo lên bậc tam cấp, dâng lễ cúng trên bàn thờ và thắp nhang.  Rồi chúng tôi đi bộ ra chợ mua chỉ thêu và giấy.  Lần nào cũng ghé ngang hàng khoai ngào đường của lão Tá.  Chúng tôi nhìn ra ngoài trong khi bà Vương ngủ.  Chúng tôi thấy những con đường dẫn về những làng khác.  Chúng tôi thấy sông và kinh.  Chúng tôi được biết nhờ chúng mà huyện chúng tôi có thể giao thông với cả nước.  Trên gác chúng tôi chỉ thấy bốn bức tường.  Còn đàn ông thì muốn đi đâu chỉ việc leo lên thuyền mà đi.

Trong lúc ấy, bà Vương và bà Cao vẫn qua lại nhà tôi như hai con gà mái mắc đẻ.  Bộ tưởng là đám hỏi đã xong là họ để chúng tôi yên hay sao?  Họ còn phải trông chừng đầu tư của họ.  Lỡ có gì rồi làm sao.  Dĩ nhiên họ phải lo sợ vì một nhà mà có bốn cuộc hôn nhân, không biết Ba có đào nổi ra tiền cưới cheo cho vợ anh Cả, của hồi môn cho ba đứa con gái, và quan trọng nhất, tiền mối lái.  Nhưng trong mùa hè tôi mười ba tuổi thì cuộc chiến giữa hai bà mối đột nhiên leo thang.

Lúc bắt đầu cũng chẳng có gì lớn.  Chúng tôi đang ngồi trên gác thì bà Cao bắt đầu than là mấy gia đình trong làng không trả tiền đúng kỳ hạn, ý muốn ám chỉ cả gia đình tôi.

“ Nông dân trong núi nổi dậy gây khó khăn cho mọi người,” bà Cao nói.  “ Không có hàng vô hàng ra.  Chẳng ai có tiền mặt.  Tôi nghe nói có nhà phải hủy cuộc hôn nhân vì không đủ tiền cho của hồi môn.  Mấy đứa đó rồi chỉ có nước đi làm vợ bé.”

Chuyện khó khăn về kinh tế trong huyện tôi thì ai mà chẳng biết, nhưng điều bà Cao nói sau đó làm mọi người ngạc nhiên.

“ Cả tiểu thư Tuyết Hoa cũng không tránh được.  Tôi phải kiếm người khác thích hợp hơn.”

Tôi mừng là không có Tuyết Hoa ở đây để phải nghe điều này.

“ Bà đang nói về gia đình bề thế nhất huyện,” bà Vương nói, giọng không trơn như dầu mà chói tai như hai cục đá xát vào nhau.  

“ Có lẽ, lão di, bà phải nói là ngày xưa.  Lão gia đó đánh bạc và nhiều thiếp quá.”

“ Cái thế của người ta phải như vậy.  Bà mà biết cái gì mà nói.  Bà đâu biết gì về gia đình quyền quí.”

“ Bà nói chuyện nghe tức cười quá.  Chuyện không mà nói thành có.  Cả tổng ai chả biết chuyện gia đình ấy.  Tình hình đã bất an rồi lại còn mất mùa mà cộng thêm hút sách nữa thì---”

Mẹ tôi đứng bật dậy.  “ Bà Cao, việc bà lo cho con tôi, tôi đội ơn, nhưng chúng là trẻ con, không nên nghe mấy cái này.  Tôi xin tiễn bà ra về.  Bà chắc còn nhiều chỗ phải đi lắm.”

Mẹ tôi nhấc bà Cao ra khỏi ghế và lôi bà sềnh sệch ra cầu thang.  Sau khi họ đi khỏi, thím tôi rót trà cho bà Vương, bà đang ngồi rất im lìm đăm chiêu, đôi mắt xa vời.  Rồi bà chớp chớp mắt, nhìn chung quanh phòng, và gọi tôi đến gần.  Tôi mười ba tuổi rồi nhưng vẫn còn sợ bà.   Tuy trước mặt tôi gọi bà là dì, nhưng trong lòng bà vẫn là bà Vương đáng sợ.  Khi tôi đến gần thì bà kéo tôi lại sát người, lấy đùi kẹp chặt tôi lại và nắm cánh tay tôi như khi gặp lần đầu.

“ Không bao giờ được nhắc những điều này với Tuyết Hoa nghe chưa.  Nó còn ngây thơ, không nên để bị ảnh hưởng bởi những lời ô uế của con mụ già đó.”

“ Thưa dì vâng.”

Bà lắc mạnh người tôi lần nữa.  “ Không bao giờ.”

“ Con xin hứa.”

Lúc ấy tôi chẳng hiểu những điều đó, mà có hiểu đi nữa thì cũng chẳng khi nào nói cho Tuyết Hoa nghe.  Tôi yêu nó và chẳng có lý nào lại lập lại những lời nham hiểm của mụ Cao.

Tôi chỉ nói thêm một điều là: chắc mẹ có kể cho Ba nghe, vì kể từ sau đó, bà Cao không bao giờ được mời vào nhà lại.  Có chuyện gì thì chỉ nói trước cửa.  Má Má và Ba thương con Tuyết Hoa đến mức đó.  Nó là lão đồng của tôi nhưng Ba Má yêu nó như yêu tôi vậy.

Đến tháng mười thì ánh nắng mùa hè rực rỡ ngoài khung cửa đã chuyển sang màu xanh thẫm của mùa thu.  Chỉ còn một tháng nữa là đến đám cưới của chị Lớn.  Gia đình nhà trai cho người mang lại quà lần cuối.  Bầy chị em kết nghĩa của chị đã bán một cân gạo để mua quà.  Họ đến nhà tôi để bắt đầu cuộc Ngồi Hát trên gác.  Những bà hàng xóm ghé thăm để tán gẫu và khuyên nhủ.  Chúng tôi hát hò và kể chuyện trong suốt hai mươi tám ngày.  Mấy cô chị em kết nghĩa giúp chị Lớn làm xong tấm chăn bông và gói ghém những đôi giày chị làm cho gia đình nhà chồng.  Chúng tôi xúm nhau bổ túc cuốn sách đám cưới của chị.  Cuốn sách này sẽ giúp giới thiệu chị với gia đình mới, và chúng tôi cố tìm những từ thích hợp để nói lên những đức tính của chị.

Ba ngày trước khi chị về nhà chồng, chúng tôi tổ chức ngày Sầu Lo.  Má Má ngồi trên bậc thang lên gác và bắt đầu rên rỉ.  

“ Gái Lớn con ơi, con là hạt châu mẹ cầm trong tay,”  bà cất giọng ai oán.  “ Mắt mẹ nhạt nhoè, suối lệ tuôn trào.  Không còn bóng con, căn nhà sẽ trống vắng.”

Chị Lớn cùng đám chị em kết nghĩa và đám đàn bà trong làng bắt đầu khóc hu hu.

Thím hát tiếp theo, tuy cùng tiết điệu nhưng lời lẽ lạc quan hơn.  “ Tôi tuy xấu xa và đần độn nhưng ở hiền gặp lành.  Hai vợ chồng tôi yêu nhau tha thiết.  Tôi chúc cháu cũng được trăm năm hạnh phúc. “

Khi tới lượt, tôi cất giọng cao vút.  “ Đại tẩu ơi, từ nay chị em mình cách biệt.  Nếu là trai thì đâu đã phải như vậy.  Căn gác này sẽ cô đơn vì không còn chị.”

Để giúp chị, tôi hát những điều đã học của Tuyết Hoa.  “ Áo mặc ai mà chẳng cần.  Không cần nhờ, cứ may cho người ta.  Thức ăn có dư thừa cũng cứ để nhà chồng ăn trước.  Làm việc chăm chỉ và nhớ lấy ba điều: Phải yêu thương và kính trọng nhà chồng.  Phải yêu chồng và may mặc cho chàng.  Phải yêu con và làm gương cho chúng.  Làm được như vậy thì họ sẽ tốt với mình.”

Những chị em kết nghĩa hát tiếp.  Khi người con gái cuối cùng đi lấy chồng thì nhóm sẽ giải tán.  Sẽ chỉ còn kỷ niệm của những ngày cùng nhau thêu thùa và dệt vải.  Khi một người chết thì những người còn lại sẽ đi đưa đám và đốt những trang giấy viết để giòng chữ theo gió bay về bên kia thế giới.

Sau khi mọ̣i người hát xong, Tuyết Hoa đứng lên nói.  “ Em sẽ không hát tặng chị,” nó nói.
“ thay vào đó, em sẽ chia sẻ một phương thức để chị có thể giữ liên lạc với chúng em.”  Nó rút cái quạt từ trong tay áo, mở ra, và đọc câu thơ giản dị mà tôi và nó đã cùng viết.  “ Đại tẩu và cũng là bạn thân, ít nói và tốt bụng.  Chị là một kỷ niệm đẹp.”  Rồi nó chỉ vào nụ hoa màu hồng bé xíu mới vẽ thêm vào vòng lá để biểu tượng cho chị.

Ngày hôm sau, mọi người đi nhặt lá tre và múc nước vào thùng.  Khi nhà trai tới thì sẽ tung lá lên để biểu hiện tình yêu tươi mãi như như cây tre; rồi chúng tôi sẽ rẩy nước để cho gia đình nhà chồng biết chị trong trắng như nước.  

Đồ giá trang được mang ra và mọi người trầm trồ khen ngợi đường kim mũi chỉ khéo léo của chị.  Sáng hôm sau chị lên kiệu đi về nhà chồng.  Họ hàng làng cóm chạy theo vừa rảy nước vừa la, “ Con gái đi lấy chồng như hắt nước ra ngoài.”  Chúng tôi theo ra tới đầu làng, nhìn theo đoàn rước đi qua cầu rời khỏi Phổ Oai.  Ba ngày sau gia đình chúng tôi cho người mang sang nhà chồng bánh nếp, quà cáp, và những quyển sách cưới.  Một ngày sau thì anh Cả mang xe kéo sang chở chị về nhà theo đúng truyền thống.  Ngoại trừ vài lần gặp chồng mỗi năm thì chị vẫn ở nhà cho đến khi có thai.  

Tôi nhớ mãi lần chị về nhà sau khi ở nhà chồng.  Thường thì chị ngồi lặng lẽ trong góc, thêu thùa, nhưng lần này chị gục đầu vào lòng mẹ mà khóc.  Mẹ chồng chị khắc nghiệt, tối ngày mắng chửi. Còn chồng thì chả biết gì cả mà còn thô bạo.  Chị phải gánh nước giặt giũ cho cả nhà.  Họ đã không cho ăn mà còn than là nhà gái chẳng gửi thức ăn qua gì cả.

Mẹ tôi không nói gì, chỉ biết vuốt tóc con gái.  Thím nói: “ Tôi năm nay đã ba mươi tám tuổi.  Cuộc đời tôi chẳng ra gì.  Tôi tuy xấu xí nhưng cũng có người lấy.  Số tôi hẩm hiu, không có được con trai.  Tôi chỉ là gánh nặng cho gia đình nhà chồng.  Tôi ước gì con gái tôi cứ ở vậy mãi không đi lấy chồng nhưng không được.  Đã sanh làm đàn bà thì phải chịu vậy.  Số phần đã định sẵn rồi.”

Thím tôi là người lúc nào cũng nói chuyện tếu và tươi cười, nên những điều thím nói làm chúng tôi sửng sốt.  Diễm Nguyệt bóp nhẹ tay tôi mà nước mắt đầm đìa.  Chị tôi còn khóc to hơn nữa.  Cuối cùng thì mẹ tôi nói.

“ Con đã lấy chồng,”  Má Má nói.  “ Mẹ chồng con cay nghiệt.  Chồng con thờ ơ.  Nhưng đã là con gái thì phải lấy chồng.  Không có lựa chọn nào khác.  Người ta có câu: “Gái không chồng chỉ là đồ bỏ.  Rừng không đốt, đất sao màu mỡ được.”



8- Hóng mát


Năm lên mười lăm, chúng tôi búi tóc kiểu phượng hoàng để người ta biết mình sắp có chồng.  Tuổi mười lăm bắt đầu ăn nói nhỏ nhẹ, gót sen dịu dàng, và bắt đầu có kinh nguyệt.  Chúng tôi nay đã thông thạo nữ thư và viết cho nhau mỗi ngày.  Tuy phải đỡ đần việc trong nhà như quét dọn, nhặt rau, nấu ăn, rửa chén, giặt giũ, dệt vải và may vá, nhưng chúng tôi vẫn có thể tự do đi lại thăm nhau và rủ rỉ rù rì, chụm đầu trên gác.  Chúng tôi yêu nhau bằng một mối tình hằng ước mong khi còn bé.

Tuyết Hoa ở nhà tôi trong mùa Lễ Hội Hóng Gió.  Lễ Hội Hóng Gió được tổ chức hàng năm vào ngày nóng nhất trong năm, khi kho lúa đã vơi gần hết mà mùa gặt mới chưa tới.  Đây là dịp mà đàn bà có chồng được dịp về quê thăm gia đình, lắm khi nhiều tuần.  Gọi đó là lễ hội nhưng thực ra đó chỉ là dịp để cho đàn bà về ở với bố mẹ để bớt đi những miệng ăn bám.  

Chị Lớn vừa dọn vào nhà chồng để chuẩn bị sanh con đầu lòng nên không thể đi đâu được.  Má Má về thăm quê ngoại, mang theo thằng cu Nhỏ, còn Diễm Nguyệt thì sang ở với chị em kết nghĩa ở đầu làng.  Vợ anh Cả mang con gái về quê hóng gió.  Ba, Chú và anh Cả sung sướng vì chẳng ai quấy rầy.  Tôi và Tuyết Hoa chỉ cần sắp sẵn trà, thuốc, và dưa hấu là xong bổn phận.  Thế là suốt ba ngày ba đêm trong mùa Hóng Gió, trên lầu chì̉ còn hai đứa tôi.

Tối đầu tiên, chúng tôi nằm cạnh nhau, chân thì quấn băng và đeo hài đi ngủ, người thì mặc áo trong áo ngoài.  Tôi đẩy giường ra cạnh cửa sổ mong sao có chút gió nhưng chẳng có chút nào, chỉ có cái nóng như thiêu đốt trong im lặng.  Ánh trăng rọi vào, phản chiếu trên khuôn mặt mồ hôi nhễ nhại, làm đã nóng còn nóng thêm.  Tối hôm sau Tuyết Hoa đề nghị cởi áo ngoài.
“ Ở đây chẳng có ai.  Ai vào đây mà biết.”   Đỡ hơn một chút nhưng chúng tôi thèm có gì mát hơn.

Buổi tối thứ ba, bóng trăng tròn vằng vặc, và căn gác đắm chìm trong một màu xanh biếc.  Sau khi đàn ông đi ngủ hết, chúng tôi cởi hết áo trong lẫn áo ngoài, chỉ đeo băng chân và hài.  Có hơi thoáng hơn một chút nhưng vẫn không có gió mát, và chúng tôi vẫn thấy nóng như lúc mặc quần áo.  

“ Chưa được, “ Tuyết Hoa nói.

Nó với tay lấy cái quạt rồi phe phẩy trên mình tôi.  Một luồng gió nóng thổi lên da tôi.  Bỗng Tuyết Hoa chau mày.  Nó khép quạt lại, để qua một bên, ghé mắt nhìn mặt tôi, rồi nhìn xuống cổ, lên ngực, rồi lại xuống tới bụng.  Đáng lý ra tôi phải mắc cở, nhưng nó là lão đồng của tôi, là bạn cùng xưa của tôi.  Chẳng có gì phải mắc cở.

Nhìn lên, tôi thấy nó đưa ngón tay vào miệng.  Đầu lưỡi thè ra.  Trong ánh sáng trăng tỏ, lưỡi nó óng lánh một màu hồng.  Nó lấy ngón tay quệt nhẹ lên lưỡi rồi vạch thành những chữ ngang dọc trên bụng tôi.  Cái cảm giác ẩm ướt mát lạnh làm tôi nổi da gà.  Tôi nhắm mắt để cảm xúc lăn tăn như gợn sóng chạy khắp châu thân.  Rồi đột nhiên cảm giác ấy biến mất.  Tôi mở mắt ra thì thấy Tuyết Hoa đang nhìn mình.  

“ Sao?”  Nhưng nó không đợi câu trả lời.  “ Chữ gì?” Nó hỏi.

Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ ra.  Thì ra nó viết chữ nữ thư trên bụng tôi.  Chúng tôi vẫn hay chơi trò vẽ bằng que trên đất hay dùng ngón tay vẽ lên tay hay lưng nhau.

“ Tôi làm lại,” nó nói.  “ Để ý nhé.”

Khi ngón tay thẫm nước bọt vừa chạm da thì tôi phải lim dim vì cảm giác đê mê làm khó thở và toàn thân như trĩu nặng.  Tôi nhắm mắt cho đến khi cảm giác ớn lạnh tan biến.  Khi mở mắt thì Tuyết Hoa đang nhìn tôi dò hỏi.

Sàng,” tôi nói.

“ Đúng,” nó nói, giọng trầm hẳn xuống.  “ Nhắm mắt lại.  Tôi sẽ viết chữ nữa.”

Lần này chữ viết nhỏ hơn, ngay cạnh eo phải.  Chữ này tôi nhận ra ngay.  

Minh.” tôi nói.

Nó cúi mặt sát mặt tôi, thầm thì vào tai,  “ Giỏi.”
Hai chữ kế tiếp ngoáy ngang bụng sang eo trái.

Nguyệt quang,” tôi nói, mở mắt ra.  “ Sàng tiền minh nguyệt quang.”

Nó mỉm cười khi thấy tôi nhận ra câu đầu của bài thơ Đường mà nó đã dạy; rồi chúng tôi đổi vị trí.  Tôi nhẩn nha ngắm nhìn thân hình nó: cái cổ thon, gò nhũ hoa nho nhỏ, cái bụng phẳng phiu mời chào như miếng lụa trinh nguyên chờ đón, hai cái xương hông nhô lên, và dưới đó, một tam giác giống của tôi, rồi cặp giò thuôn thả dài xuống và biến mất trong đôi hài đi ngủ bằng lụa đỏ.

Tôi hoàn toàn chưa có kinh nghiệm chuyện vợ chồng.  Sau này mới biết, đối với đàn ông,  không gì gợi cảm hơn làn da trắng ngần của người đàn bà khỏa thân, tương phản với màu đỏ rực rỡ của đôi hài.   Chỉ biết là tối hôm đó tôi đã nhìn chúng đắm đuối.  Đó là đôi hài mùa hè của Tuyết Hoa có thêu hình ngũ độc--rết, cóc, bọ cạp, rắn, và tắc kè để trừ bệnh dịch mùa hè--dịch tả, dịch hạch, thương hàn, sốt rét, và sốt ban.  Mũi thêu tuyệt diệu như thân hình của nó.

Tôi liếm ngón tay và ngắm nhìn làn da trắng ngần của Tuyết Hoa.  Khi ngón tay tôi chạm nhẹ lên da bụng gần rốn thì nó chợt hít hơi vào.  Ngực nó phập phồng, bụng nó lõm xuống, và da gà nổi lên.

Nghi,” nó nói.  Tôi viết chữ kế tiếp ngay dưới rốn.  “ Thị,” nó nói.  Rồi tôi bắt chước nó, viết trên phần da thịt bên hông phải.  “ Thượng.”  Hông trái.  “ Sương.”  Nó biết bài thơ nên không có gì bí ẩn, chỉ có cảm giác sảng khoái của viết và được viết.  Tôi đã viết trên những phần cơ thể mà nó đã làm.  Giờ thì tôi phải tìm một chỗ mới.  Tôi chọn điểm xương sườn hai bên nhập lại ở trên bụng.  Người Tuyết Hoa run lên dưới ngón tay khi tôi viết.  “ Cử.”

Chỉ còn vài chữ nữa thôi.  Tôi biết mình muốn làm gì nhưng ngần ngừ.  Rồi tôi liếm ngón tay viết trên một bên vú của nó.  Môi nó hé mở và một tiếng rên khe khẽ thoát ra.  Sau đó, tôi nằm song song với Tuyết Hoa để có thể thấy rõ phản ứng của làn da.  Tôi mút ngón tay rồi viết, và nhìn núm vú nó răn rúm cứng lại.  Hai đứa tôi  nằm yên một hồi lâu rồi Tuyết Hoa thì thầm đọc nguyên câu: “ Nghi thị địa thượng sương.”

Nó lăn lại nhìn vào mặt tôi, rồi dịu dàng đặt tay lên má tôi.  Khuôn mặt nó rạng rỡ dưới ánh trăng.  Rồi nó vuốt nhẹ xuống cổ, trên vú, rồi ngang eo.  “ Hai câu nữa.”

Nó ngồi dậy và tôi lăn ra nằm ngửa.  Tôi tưởng những đêm qua đã là nóng, nhưng giờ này, trần truồng, dưới ánh trăng, tôi cảm thấy bên trong mình, một ngọn lửa đang cháy phừng phừng.

Tôi cố tập trung trong khi nó chuẩn bị viết chữ đầu.  Nó xuống chân giường và đặt bàn chân tôi lên đùi nó.  Nó bắt đầu viết phía trong của cổ chân trái, ngay trên chiếc hài đỏ.  Khi viết xong, nó chuyển sang cổ chân phải.  Rồi từ đó nó hết viết bên này, lại chuyển qua bên kia.  Bàn chân tôi--phần cơ thể đã trải qua không biết bao nhiêu là thống khổ và u sầu, bao nhiêu là tự hào và sắc đẹp-- rần rần vì khoái cảm.  Hai đứa tôi đã là lão đồng tám năm nhưng chưa bao giờ gần gũi như hôm nay.  Nó viết: “ Cử đầu vọng minh nguyệt.”

Tới phiên tôi, tôi cầm gót sen vàng của nó đặt lên đùi.  Tôi chọn điểm mà tôi có nhiều khoái cảm nhất:  miền giữa xương mắt cá và gân nhượng chân.  Rồi tôi viết trên bắp chân, trên đùi.  Tôi cúi sát mặt  để viết cho thật đẹp.  Rồi tôi thổi khô chữ và nhìn những sợi lông măng uốn rung theo gió.

Sau đó chúng tôi cùng nhau đọc lại nguyên bài.  

“ Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”  

Tạm dịch:

“Trăng sáng chiếu đầu giường
Tưởng là sương trên đất
Ngửng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa.”

Tôi biết bài thơ tả tâm sự nhớ nhà của thi sĩ trên bước đường tha hương, nhưng kể từ đêm hôm đó, tôi tin bài thơ đã được viết cho hai đứa tôi.  Tuyết Hoa là quê hương của tôi, và tôi của nó.


























9- Diễm Nguyệt

Ngày hôm sau Diễm Nguyệt trở về nhà.  Chúng tôi bắt đầu làm việc lại.  Vài tháng trước, gia đình nhà chồng đã ước định ngày thành hôn.  Họ gởi quà sêu gồm thịt lợn, kẹo bánh, và vải vóc.  Tôi và Diễm Nguyệt đã dệt vải khá thuần thục.  Loại vải thô dệt từ bông vải nhà trồng.  Trong khi đó Tuyết Hoa mặc vải mịn, có trang trí tinh xảo.  Tưởng thế đã là đẹp lắm rồi, nhưng khi nhận được vải của nhà chồng gởi cho thì mới ngã ngửa.  Đó là loại vải mềm, không có hạt, trang trí cầu kỳ, nhuộm màu chàm sậm.  Màu mà người Dao thích vô cùng.  Lụa thì không những tốt mà còn tiệp màu.  Màu đỏ cho đám cưới,Tết nhất và hội hè.  Màu tím và màu lục cho người vợ trẻ.  Màu xanh xám như bầu trời trước cơn mưa và xanh lục như ao hè dành cho góa phụ.  Còn màu đen và xanh đậm thì cho mấy đàn ông nhà chồng.
Những cuộn vải không phải gởi để muốn làm gì thì làm mà để  chuẩn bị của hồi môn.  Sẽ phải dệt chăn, làm bao gối, đan giày, và may quần áo cho cả đời, vì người đàn bà Dao không lấy gì của nhà chồng.  Làm chăn mất thì giờ nhưng người ta tin là càng nhiều chăn thì sẽ càng nhiều con, nên chúng tôi làm càng nhiều càng tốt.

Chúng tôi thích khâu hài.  Hài cho chồng, hài cho bố chồng, hài chị em chồng, và trẻ con.  Cũng may là nhà chồng tôi đa số là đàn ông.  Hài đàn ông không cầu kỳ nên dễ làm.  Nhà chồng Diễm Nguyệt trái lại, toàn là con gái.  Chúng tôi cũng làm mười sáu đôi cho chính mình.  Mỗi mùa bốn đôi.  Làm hài là cơ hội khoe tài nhưng cũng mang lại niềm vui.  Tiếng vùng tôi, hài là giày, mà hài cũng là trẻ con.   Càng nhiều hài thì càng nhiều con.   

Nhà chồng gởi cho chúng tôi mẫu chân.  Chưa gặp chồng, không biết cao thấp, hay mặt có rỗ không, nhưng cỡ chân thì biết.  Chúng tôi dùng mẫu để cắt vải, rồi dùng keo dán ba lớp vào với nhau.  Rồi xếp ngoài cửa sổ cho khô.  Khô xong thì chồng ba cái vào với nhau khâu lại làm đế.  Chúng tôi muốn biểu diễn với nhà chồng nên khâu nhiều kiểu khác nhau: kiểu bướm xoè cánh cho chồng, hoa cúc cho mẹ chồng, con dế đậu trên cành cây cho cha chồng.  Thật là cầu kỳ chỉ để làm đế giày nhưng vẫn cố gắng để mong sao nhà chồng sẽ yêu mình.

Mùa hè năm ấy sao mà nóng thế.  Trên gác nóng đã đành rồi, dưới nhà cũng chẳng khá hơn.  Nhà nghèo nên không có nội viện để hóng mát.   Ba thấy tội nghiệp nên cùng Chú giăng vải làm mái che phía bắc căn nhà.  Rồi xếp một ít chăn xuống đất để ngồi.

Chúng tôi ngồi dưới bóng rợp trước nhà thêu hài.  Diễm Nguyệt thêu những đôi hài màu đỏ.  Những nụ sen hồng tượng trưng cho lòng tinh khiết.  Tuyết Hoa vừa thêu xong một đôi hài lụa màu thiên thanh có hình những đám mây cho mẹ chồng, và một đôi màu tím có viền trắng cho mình.  Còn tôi thì đang thêu hài cho mẹ chồng.  Uốn quanh chiếc hài là cảnh những người đàn bà ngồi bên suối dưới hàng liễu rũ.  


Một hôm bà Cao ghé thăm.  Bà vừa từ làng Ca Đàm về, mang theo một lá thư của chị lớn.  Tôi dùng kim thêu mở lá thư dán bằng hạt cơm ra.  

“ Cả nhà thương mến,
Hôm nay con cầm bút mà lòng dõi trông về nhà.
Nghĩ đến những ngày qua mà không cầm được nước mắt.
Trờ thì nóng mà bụng lại to.
Nhà chồng cay nghiệt.  Làmkhông thiếu một cái gì mà vẫn chưa vừa lòng.
Các em cố phụng dưỡng Ba Má.
Mong Ba Má sống lâu trăm tuổi cho còn có chỗ mà về.
Con.”

Tôi đọc thư xong mà cảm thấy may mắn vì tục lệ chỉ bắt về nhà chồng khi có con.  Tôi vẫn còn hai năm trước ngày đám cưới và có thể ba năm sau đó trước khi phải về nhà chồng vĩnh viễn.  Tôi bỗng nghe tiếng nức lên.   Quay qua nhìn Tuyết Hoa thì thấy vẻ mặt khác lạ.  Tôi nhìn theo ánh mắt nó thì thấy Diễm Nguyệt đang hai tay vuốt cổ, thở khò khè.

“ Tuyết Hoa, chạy tìm ba và Chú về ngay.” Tôi la hốt hoảng lên.

Khi bò sang cạnh nó thì thấy một con ong đang nằm dãy chết trên miếng vải thêu.  Miệng Diễm Nguyệt há hốc, cái lưở̃i to thù lù.  Nó thở khó khăn nhưng mắt vẫn nhìn tôi.  Tôi nắm tay nó năn nỉ.  “ Nghe đây. Chú sắp về tới nơi rồi.  Ai cũng yêu Nguyệt hết.  Nguyệt có nghe thấy không?”

Những người đàn bà lối xóm bu lại và bắt đầu khóc rống lên.  Diễm Nguyệt nấc lên một tiếng, cặp mắt nhắm nghiền trên một khuôn mặt dị dạng tàn nhẫn, rồi gục đầu xuống ngực.

Tất cả im lặng như cảnh vật thêu trên chiếc hài.  Chú chạy ù té về, giạt đám đông qua một bên.  Một tiếng hú thất thanh phát ra rồi thì chú khuỵu xuống.  Nước mắt, nước mũi chảy xuống cằm rồi chẩy tọt vào trong cổ áo nhễ nhạii.  

Ba Ba đến và quì cạnh tôi.  Vài giây sau, anh Cả hổn hển xuất hiện, lưng cõng Tuyết Hoa,  Chú vẫn cố lay Diễm Nguyệt dậy.  “ Dậy đi con.  Mẹ con sắp về rồi.  Dậy đi.”

Ba nắm cánh tay chú.  “ Trễ quá rồi.”

Chú yên lặng gật đầu rồi khiêng Diễm Nguyệt vào nhà.  Tuyết Hoa chạy vào, dẹp vội phòng.  Chú đặt xác Diễm Nguyệt xuống mặt bàn.  

“ Phải báo cho mọi người biết.” Tuyết Hoa nói.

Nghĩ đến việc phải báo cho thím, chú càng khóc to hơn.  Diễm Nguyệt là niềm vui duy nhất trong đời của thím.  Chân tay tôi bủn rủn, nước mắt tôi lại dâng trào.  Tuyết Hoa choàng vai dìu tôi ngồi xuống ghế, cùng lúc vẫn điều động cả nhà.

“ Anh Cả, chạy sang làng Thím,” nó ra lệnh.  “ Em có tiền mặt.  Mướn người kiệu thím về.  Rồi chạy sang làng mẹ, cõng mẹ về.  Nhanh lên.”

Chú ngồi gục đầu vào xác Diễm Nguyệt, nước mắt làm ố màu chiếc áo chùng.  Ai bảo người Dao không biết thương con gái?  Con gái cũng bú vú mẹ như con trai vậy.  Bởi thế nên trong nữ thư mới có những câu như “ Tôi là viên ngọc trong lòng bàn tay của bố.”  Viên ngọc trai của chú đã vĩnh viễn không còn nữa.

Trong khi đó, Tuyết Hoa lăng xăng pha trà không ai buồn uống.  Nó lục khắp nhà tìm vải may áo tang.  Nó ra cửa đón khách.  Bà Vương đi kiệu đến và ôm mặt khi thấy xác Diễm Nguyệt.  Trời thì nắng mà không có chỗ nào mát để xác.

“ Tuyết Hoa, lấy vải sa che mặt rồi liệm xác.  Ngay đi kẻo không mẹ nó về.”  Tuyết Hoa dợm chân lên gác thì bà Vương túm lại.  “ Dì sẽ về Tùng Khẩu lấy áo tang cho con.  Không được đi đâu hết.”  Bà nhìn xác Diễm Nguyệt một lần nữa rồi đi ra.  

Khi thím về tới nhà thì cả nhà đã mặc tang phục xong.  Xác Diế̃m Nguyệt trong quấn vải sa, ngoài mặc áo khâm liệm.  Mắt thím ráo hoảnh.  Chỉ hơi lảo đảo lúc đầu nhưng rồi đi thẳng tới xác con.  Thím vuốt quần áo con cho phẳng phiu rồi đặt tay lên tim nó.  Rồi thím cứ đứng yên như vậy.

Lúc đưa tang, thím bò đến nghĩa trang.  Thím đốt vàng mã cùng tất cả nữ thư trước mộ.  Sau đó thím làm một cái bàn thờ trong nhà.  Khi có người thì thím không khóc, nhưng đến đêm thì có những tiếng rên rỉ nho nhỏ nghe như phát xuất tận đáy lòng.  Chúng tôi cố tránh mặt để thím khỏi nghĩ đến con.  Khi mọi người ra ruộng thì thím rút về phòng, nằm quay mặt vào tường, khóc thút thít.  

Dân làng tôi tin là con gái sắp lấy chồng mà chết thì hồn sẽ về bắt những đứa chưa chồng về cõi âm cho có bạn.  Tuyết Hoa đề nghị xây một tháp hoa để hồn Diễm Nguyệt có chỗ vui chơi và may ra chúng tôi có thể thoát nạn.

Người có tiền thì mướn thợ về xây tháp hoa.  Còn chúng tôi thì xây lấy một cái tháp bảy tầng với hai con chó đá nằm gác cổng.  Bên trong chúng tôi viết nữ thư lên tường.  Một tầng để múa, một tầng để bay lượn.  Một tầng làm phòng ngủ, có trăng sao vẽ trên trần.  Một tầng là gác, có cửa sổ nhìn ra ngoài.  Chúng tôi làm một cái bàn trên để kim chỉ, bút giấy để thêu thùa và viết nữ thư cho bạn mới cõi âm.  Chúng tôi lấy giấy màu xoắn lại làm đầy tớ và ca kỹ để giúp vui.  Rồi chúng tôi viết những bài ai thán để an ủi bạn.  Tháp hoa để Diễm Nguyệt vui nơi vĩnh hằng và những ai thán là lời chào vĩnh biệt của chốn trần gian.  

Khi trời bớt nóng, chúng tôi được phép ra thăm mộ Diễm Nguyệt.  Chúng tôi ngồi cạnh mộ độ vài phút rồi nổi lửa đốt tháp.  Nhìn ngọn lửa, tôi tưởng tượng tháp được mang về thế giới bên kia và Diễm Nguyệt đang bay lượn giữa tầng lầu trong thích thú.  Rồi tôi lấy ra tờ giấy viết bằng nữ thư và hát.

“ Diễm Nguyệt ơi, Diễm Nguyệt hỡi,
Mong sao tháp hoa đem lại an ủi cho em
Chị sẽ không quên cúng tế và tảo mộ.
Hãy vui vẻ mà sống trong tháp.”

Tuyết Hoa và tôi đi bộ về nhà lên gác.  Ngồi cạnh nhau, chúng tôi thay phiên viết lời ai thán lên nếp quạt.  Khi viết xong, tôi điểm lên trên vòng lá một mảnh trăng lưỡi liềm, mỏng mảnh và kín đáo như cô em họ thân yêu của tôi.






















10- Kiệu hoa

Diễm Nguyệt chết được hai năm thì tóc tôi, trước đây cài trâm, nay được chải kiểu phượng hoàng của một thiếu nữ sắp lấy chồng.  Nhà chồng cũng gởi vải vóc và tiền bạc để mua bóp và nữ trang--bông tai, nhẫn, vòng đeo cổ-- bằng bạc hay cẩm thạch.  Họ còn gởi cha mẹ tôi gạo nếp để nấu nướng cho gia đình và bè bạn sẽ tới thăm trong những ngày sắp tới-- và nửa con lợn, mà Ba Ba sẻo ra biếu hàng xóm để loan báo thủ tục lễ thành hôn chính thức bắt đầu.  Nhưng món quà làm cha tôi ngạc nhiên và sung sướng nhất-- cho thấy những công lao khó nhọc bấy lâu nay đã có kết quả --là một con trâu.  Từ nay cha tôi đã nghiễm nhiên trở thành một trong ba người giàu nhất làng.  

Tuyết Hoa đến chơi cả tháng trong dịp Ngồi Hát trên Gác.  Trong bốn tuần lễ cuối cùng, nó đã giúp tôi làm xong giá trang và chúng tôi đã có dịp gần gũi hơn.  Cả hai đứa đều còn ngây thơ, không biết gì về chuyện hôn nhân nhưng tin là không thể so sánh được với cảm giác bên nhau -- cái ấm áp của thân xác, mềm mại của da thịt, và mùi hương nhẹ nhàng của xử nữ.  Tình yêu giữa chúng tôi sẽ không bao giờ đổi thay.

Ngồi Hát trên Gác là khởi đầu của một lời cam kết sâu xa.  Sau mười năm quen biết, liên hệ của chúng tôi sắp sửa bước qua một giai đoạn mới.  Vài năm nữa, một khi chúng tôi đã dọn về ở luôn nhà chồng thì sẽ có thể đến thăm nhau thường xuyên hơn.  Vì chồng của chúng tôi, những người có tiền uy thế lực, thì chả lý nào lại không cho người đến kiệu đi.

Tôi không có tỉ muội kết nghĩa nên mẹ, thím, chị dâu, chị Lớn và vài đứa con gái chưa chồng làng phổ Oai cùng đến để chung vui.  Bà Vương thỉnh thoảng cũng ghé lại.  Lúc thì kể truyện, lúc thì hát hò.  Mẹ tôi hát tuồng “ Truyện Cô Bán Hoa,” trong khi thím, lúc ấy còn đang để tang, làm chúng tôi rơi lệ với khúc vãn ca.

Một buổi chiều, trong khi tôi đang thêu dây đai áo cưới thì bà Vương đến để hát bài “ Chuyện Người Vương Phụ.”  Bà ngồi xuống ghế bên cạnh Tuyết Hoa, lúc ấy đang bận viết tam triên thư, tập sách-cưới-ngày-thứ-ba và đang lựa lời để thưa với nhà chồng về tôi.  Hai người thì thầm với nhau gì đó không biết, chỉ biết Tuyết Hoa luôn miệng “ Thưa dì vâng.”  “ Thưa dì không.”

Khi bà Vương thấy chúng tôi đang ngồi đợi, bà bắt đầu.  “ Ngày xưa có người con gái sùng đạo Phật nhưng không ai hỏi cưới.” Lúc sau này bà mỗi ngày mỗi mập hơn, nên chậm chạp và thong thả hơn khi kể chuyện.  “ Gia đình gả nàng cho một người đồ tể-- thật là không hợp với một người sùng đạo.  Rồi nàng sanh con trai và con gái nhưng vợ chàng Vương vẫn nhất định ăn chay.  Nàng đọc kinh mỗi ngày, nhất là kinh Kim cương.  Nàng còn nài nỉ chồng bỏ nghề sát sanh, nhưng chàng Vương nói gia đình đã làm nghề đồ tể nhiều đời, không thể bỏ được.
“ Một ngày kia, Diêm Vương cho bộ hạ đi tìm người có đức độ.  Chúng dụ dỗ vợ chàng Vương xuống địa ngục đễ đọc kinh Kim Cương.  Nàng biết đã đến lúc phải lìa cõi đời nên nói chồng đi kiếm vợ khác và căn dặn con cái cố vâng lời kế mẫu.  Nói xong thì nàng té xuống đất chết.
“ Sau nhiều thử thách thì cuối cùng nàng được giải tới trước mặt Diêm Vương.  Diêm Chúa bắt nàng đọc kinh Kim Cương cho nghe.  Thấy nàng đọc thuộc, và vì đức độ của nàng nên Diêm Vương cho nàng đầu thai xuống trần làm con trai của một vị quan.  Nhưng tên thật của nàng được khắc dưới gan bàn chân.  
“ Kiếp trước nàng đã sống một cuộc đời đạo đức, nhưng vẫn chỉ là một người đàn bà,”  bà Vương nói. “ Kiếp này là đàn ông, nàng đã học hành xuất sắc, thi đỗ làm quan nhưng lòng vẫn không quên gia đình cũ và vẫn muốn trở lại kiếp đàn bà.  Nàng xin triều kiến nhà vua, kể đầu đuôi câu chuyện và xin được trở về làng cũ.  Nhà vua bổ nhiệm nàng về làm pháp quan tại huyện nơi chồng con ở.  Khi dân làng đến quì lạy chúc mừng, thì nàng cởi giày cho thấy tên thật in dưới gan bàn chân.  Nàng nói với người chồng, nay đã già, là nàng muốn làm vợ trở lại.  Vương lão và con cái ra khai mộ nàng.  Ngọc Hoàng bước ra và tuyên bố cả nhà họ Vương được lên thẳng Niết Bàn.”

Tôi nghĩ trong bụng có lẽ bà Vương kể câu chuyện này để hé cho tôi biết về nhà chồng của tôi.  Tuy gia đình nhà chồng tôi cao sang quyền quý nhưng biết đâu cũng có những việc làm không phải.  Hơn nữa, chồng tôi tuổi cọp, chắc dễ nóng nảy và hành động thiếu chín chắn.  Tôi tuổi ngựa nên sẽ có thể giúp chồng trên lãnh vực này.  Ngoài chuyện này ra thì trong lúc này trong bụng tôi nửa vui, nửa buồn.  Buồn vì sắp phải xa gia đình, nhưng vui vì cả một chân trời mở rộng ra trước mắt.  Thế nhưng Tuyết Hoa, người lão đồng của tôi lại có vẻ dửng dưng, mặc dầu đám cưới của nó chỉ sau tôi có một tháng. Tôi đoan chắc vì nó lo nghĩ về cái đêm tân hôn.

“ Tôi chẳng sợ đâu,” nó nói trong khi chúng tôi gấp chăn lại để gói.  

“ Tôi cũng chẳng sợ,” tôi nói, nhưng tôi biết trong thâm tâm hai hai đứa lo ngay ngáy.  Dĩ nhiên còn bé tôi đã từng thấy súc vật giao cấu nhưng không biết mình sẽ phải làm gì.  Trong khi đó mẹ và tím tôi cũng như bà mối vẫn chưa nói gì mặc dù đã căn dặn kỹ lưỡng tất cả các chuyện khác.   

Tôi hướng câu chuyện sang ngả khác.  Thay vì về nhà sau đám cưới thì tôi sẽ sang ở nhà Tuyết Hoa một tháng trong dịp Ngồi Hát trên Gác của nó.  Tôi chưa bao giờ đến nhà nó nên trông đợi dịp này còn hơn trông đợi đám cưới của chính mình.  

“ Tôi sẽ gặp gia đình của bạn.  Bạn còn mời những ai nữa?”

“ Ngoài bà Vương ra thì tôi không biết mẹ tôi mời những ai.”  Tuyết Hoa nói.

Chúng tôi tiếp tục gấp chăn trong im lặng.  Khi liếc qua, tôi thấy mặt nó đanh lại và bỗng nhiên tôi lo lắng không biết có phải tại nó xấu hổ, không muốn giới thiệu tôi với gia đình nó chăng?

“ Tôi chỉ sợ bạn sẽ thất vọng,” nó nói.  “ Tôi đã nói nhiều về gia đình tôi, chỉ sợ không được như bạn nghĩ.”


Ba ngày trước lễ thành hôn, tôi bắt đầu tục lệ của Ngày Sầu Lo.  Đàn bà trong làng tụ tập hết trên gác và mọi người đua nhau khóc hu hu.  Sau khi mẹ con tôi khóc và hát xong thì tới phiên Ba và chú, rồi thím và các anh em.  Tôi không buồn nhưng cảm thấy đói lả vì tục lệ không cho phép cô dâu được ăn gì trong mười ngày cuối cùng.  Không hiểu mục đích tục lệ này để làm quen chịu đựng trước khi về nhà chồng, hay để trong sạch hơn trước khi gặp chồng? Tôi chỉ biết là Má Má-- như đa số các bà mẹ khác-- dấu vài quả trứng luộc cho tôi ăn.

Buổi sáng hôm sau tôi tỉnh dậy mà trống ngực đánh lô tô, vì hôm nay phải ra mắt mẹ chồng.  May mà có Tuyết Hoa bên cạnh an ủi và giúp mặc áo cưới--một chiếc áo khoác ngắn không cổ, có đai thắt, mặc với quần dài.  Nó đeo chiếc vòng bạc vào cổ tay tôi, rồi giúp tôi đeo những món quà khác như bông tai, kiềng, và trâm.  Chân tôi đi đôi hài cưới màu đỏ và đầu tôi đội một cái mão cầu kỳ có gắn những viên ngọc và tua bạc mà mỗi khi cử động lại rung rinh.   Những giây tua màu đỏ treo lủng lẳng trước mũ thành tấm che mặt nên chỉ có thể nhìn xuống đất.

Tuyết Hoa dắt tôi xuống nhà.  Tôi nghe tiếng bước chân của mẹ, tiếng chú thím thì thầm với nhau và tiếng ghế sột soạt khi cha tôi đứng dậy.  Cả nhà đi bộ đến Phổ Oai Từ Đường để lạy tạ tổ tiên.  Tuyết Hoa lúc nào cũng ở bên cạnh, dắt tôi đi trên con hẻm, thì thầm lời khuyến khích và thúc đi nhanh hơn vì gia đình nhà chồng sắp tới.  Khi về tới nhà, hai đứa tôi lên gác lại.  Nó nắm tay tôi và diễn tả quan cảnh ở nhà chồng của tôi.

“ Nhắm mắt lại để tưởng tượng,” Nó nói.  “ Lỗ đại nhân và Lỗ thái thái chắc chắn đã y phục chỉnh tề.  Rồi họ cùng họ hàng và bằng hữu lên đường đến Phổ Oai.  Có một đoàn nhạc công đi theo để thông tri cho mọi người biết hôm nay có đám rước.”  Nó hạ thấp giọng xuống.  “ Còn chú rể thì sao?  Chàng ở lại Tùng khẩu để đợi bạn.  Chỉ hai ngày nữa thôi là bạn sẽ gặp chàng.”

Bỗng nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc.  Họ sắp tới nơi rồi.  Tuyết Hoa và tôi ra cửa sổ nhìn xuống.  Chúng tôi thấy người đại diện nhà trai đứng trước cổng nhà, trình cha tôi một tờ giấy màu đỏ báo hiệu gia đình đến rước dâu.

Và rồi đoàn nhạc công quẹo vào ngõ, theo sau bởi một đám đông người lạ.  Khi họ tới trước cửa nhà thì một cảnh tượng huyên náo bắt đầu.  Người ta tung lá tre và rảy nước lên người nhạc công, rồi nói cười ồn ào.  Tôi được lệnh xuống nhà.  Tuyết Hoa nắm tay dắt tôi.  Tôi nghe tiếng đàn bà hát.  “ Nuôi con gái rồi gả chồng như làm đường đẹp để người ta đi.”

Chúng tôi bước ra ngoài và bà Vương bắt đầu giới thiệu quan viên hai họ.  Đây là lần đầu tiên gia đình nhà chồng thấy mặt nên tôi phải cố ra vẻ e lệ, không dám hỏi Tuyết Hoa xem họ đang làm gì.  Rồi cha mẹ tôi dẫn đường đến tổ đường để bắt đầu ăn mừng.  Tuyết Hoa và những đứa con gái trong làng ngồi cạnh tôi.  Món ăn được mang ra.  Rượu được rót vào bát và những khuôn mặt chuyển sang màu đỏ.  Người ta xúm lại chọc ghẹo.  Mùi thức ăn làm tôi chóng mặt vì không được ăn gì trong suốt bẩy ngày qua.

Ngày hôm sau-- Ngày Nhà Hát Lớn-- là bữa tiệc chính thức.  Những món giá trang tôi làm cùng cuốn tam triên thư được trình ra.  Má Má và Thím dắt tôi ra bàn ở giữa.  Khi tôi ngồi xuống thì mẹ chồng tôi đặt trước mặt tôi một bát thang, biểu hiện cho hảo tâm của gia đình nhà chồng.  Lúc bấy giờ có bắt tôi làm gì cũng sẵn sàng làm chỉ để húp vài miếng canh thang ấy.  

Vì tua mũ nên tôi không thấy mặt mẹ chồng, nhưng khi nhìn xuống thì thấy bàn chân bà nhỏ như chân tôi, và tôi chợt hoảng.  Bà không đi chiếc hài tôi làm.  Vừa lúc ấy, Tuyết Hoa đến cầm tay tôi.  Theo đúng phong tục thì bây giờ tôi phải đi về nhà.  Nó dìu tôi lên gác rồi tháo mũ và trút bỏ trang phục cô dâu rồi cho tôi mặc bộ áo ngủ.  Tôi không nói nó nghe về đôi hài của mẹ chồng.

Tối khuya gia đình tôi mới về nhà.  Mẹ tôi vào phòng với vẻ mặt âu lo.  Bà ngồi xuống cạnh giường.

“ Mẹ luôn dạy con là không để xấu xa ảnh hưởng đến cuộc đời,” bà nói.  “ và ta có thể tìm thấy cái đẹp ngay cả trong đau thương.”

Tôi ngoài mặt bình tĩnh gật đầu nhưng trong bụng muốn gào lên vì sợ hãi.  Hồi tôi bị bó chân bà luôn luôn nói những lời này.  Bộ chuyện vợ chồng có thể đau đớn hơn thế hay sao?  Và rồi bà đứng lên đi khập khiễng ra khỏi phòng.  Khi Tuyết Hoa trở lại và thấy tôi sợ hãi thì nó ngồi xuống cạnh giường để cố an ủi.

“ Bạn đã học tập hơn mười năm cho ngày hôm nay,” Nó nói nhẹ nhàng.  “ Bạn đã tuân theo mọi quy luật, lời nói bạn mềm mỏng nhưng lòng bạn cứng rắn.  Bạn có công dung ngôn hạnh đầy đủ không thiếu cái gì.”

“ Thế còn chuyện phòng the thì sao?”

“ Có gì mà lo? Ba mẹ và chú thím đã trải qua và đã có bao người con thì đã sao đâu.  Bạn sẽ là người mẹ hiền, vì bạn có bản chất nhân từ và là người thầy tốt,” nó thì thầm trong tai tôi.  “ Sao tôi biết? Vì chính tôi đã học của bạn.  Và hơn nữa, tôi thấy lối gia đình họ Lỗ nhìn bạn hôm nay là đủ biết.”

Tôi quay lại nhìn mặt nó.  “ Nói tôi nghe đi.  Nói hết tôi nghe.”

“ Có nhớ khi Lỗ Thái Thái mang bát canh thang đến cho bạn không?”

Sao tôi có thể quên được giây phút xấu hổ đó.

“ Toàn thân bạn đã run rẩy,” Tuyết Hoa nói tiếp.  “ Không biết sao bạn có thể làm vậy được.  Ai cũng để ý thấy và cảm phục sự mong manh nhưng khắc chế của bạn.  Bạn ngồi đó cúi đầu như một thiếu nữ vẹn toàn.  Lỗ thái thái quay lại chồng và mỉm cười ưng ý.”

“ Nhưng---”

“  Và cả họ nhà họ Lỗ trầm trồ ngắm nghía đôi gót sen của bạn.  Ai cũng sung sướng là một ngày kia bạ̣n sẽ là Lỗ Thái Thái tương lai của làng Tùng Khẩu.”


Sáng sớm hôm sau nhà chồng tôi đến Phổ Oai  để rước tôi về Tùng Khẩu.  Khi nghe tiếng chiêng trống từ xa là tim tôi đã đập mạnh và nước mắt tôi bỗng dưng tuôn trào.  Mẹ tôi, thím tôi, chị Lớn, và cà Tuyết Hoa đều sụt sùi khi dắt tôi xuống nhà.  Đại diện họ nhà trai đứng trước cửa trong khi anh em của tôi giúp chất đồ lên chiếc kiệu đợi đàng trước.  Tôi đeo lại chiếc mão nên không thấy, nhưng nghe được tiếng hò đối đáp.

“ Đàn bà mà không bỏ làng mà đi là thứ đàn bà vất đi.”  Má Má gào lên.

“ Tạm biệt Má Má,” tôi hò đáp lại.  “ Con đội ơi mẹ đã nuôi nấng một đứa con gái vô dụng.”

“ Tạm biệt con, “ Ba Ba nói nhỏ.

Nghe tiếng Ba, nước mắt tôi chảy thành giòng.  Tôi vịn lấy lan can cầu thang, bỗng nhiên không muốn đi nữa.  

“ Phận đàn bà là phải xa gia đình,” Thím cất tiếng hát.   “ Con như loài chim bay vào trong đám mây, không bao giờ trở lại.”

“ Cám ơn thím, lúc nào cũng làm con vui.  Cám ơn thím đã dạy con ý nghĩa của đau thương.  Cám ơn thím đã dạy dỗ con.”

Tiếng khóc của thím vang vọng về từ một chốn tăm tối.  Mủi lòng, tôi cũng khóc theo.

Nhìn xuống, tôi thấy bàn tay rám nắng của chú gỡ ngón tay tôi khỏi lan can.

“ Chiếc kiệu hoa đang đợi con,” chú nói, giọng ngẹn ngào.

“ Chú----”

Rồi tôi nghe tiếng anh chị em của tôi, chúc tôi may mắn.  Tôi muốn nhìn tận mặt, không bị che bởi những sợi giây tua đỏ.

“ Anh Cả, cám ơn anh đã tốt với em,” tôi hát.  “ Em hai, cám ơn em cho chị săn sóc em khi còn mặc quần thủng đít.  Chị lớn, cám ơn chị đã kiên nhẫn với em. “

Bên ngoài, tiếng nhạc trỗi to hơn.  Tôi đưa tay ra.  Má Má và Ba Ba cầm tay tôi dắt qua ngạch cửa.  Khi bước qua, tua mũ lay động, tôi thấy một chiếc kiệu hoa phủ đầy hoa và lụa.  Tất cả những điều nói lúc đính hôn sáu năm trước ào ạt trở về từ quá khứ.  Tôi lấy một người tuổi dần, tuổi hợp nhất.  Chồng tôi khoẻ mạnh, thông minh, và có học.  Gia đình chàng giàu có, được kính trọng, và quảng đại.  Tôi từ từ buông bàn tay cha mẹ và bước tới trước.  Tuyết Hoa dìu tôi lên kiệu.  Nó ghé vào tai tôi nói nhỏ.

“ Nhớ mình là lão đồng mãi mãi.” Rồi nó lấy cái gì trong tay áo nhét vào túi áo ngoài của tôi.  
“ Tôi làm cái này cho bạn.  Trên đường tới Tùng Khẩu mở ra đọc.  Sẽ gặp lại sau.”

Cả nhà đi theo ra tới tận đầu làng, nói với theo những lời chúc tụng.  Tôi ngồi khóc một mình trong kiệu.

Người ta hay nói “bất lạc phú gia”, ý nói không rụng vào nhà chồng ngay.  Lạc có nghĩa là rụng, như lá rụng mùa thu.  Vùng tôi vợ là quyến mà khách cũng là quyến.  Suốt đời sẽ chỉ là người khách trong nhà chồng.  Tôi thò tay vào túi lấy gói của Tuyết Hoa.  Một cái quạt gói trong chiếc khăn tay.  Trên nếp quạt có đề hàng chữ.  

“ Hai con chim tung bay-- tim đập cùng nhịp. Nắng làm ấm đôi cánh,  Vạn vật là của ta.”   

Trên cánh quạt, hai con chim giang cánh bay lên.  Tôi cảm động vì Tuyết Hoa đã dành một chỗ cho chồng tôi trong cái gì quí nhất của hai đứa.  Nhìn xuống chiếc khăn tay thì thấy có thêu một lá thư.

Lá thơ bắt đầu bằng những lời hay dùng để viết cho cô dâu:

“ Viết cho bạn mà tim như dao cắt.  Mình từng hứa không rời một bước, không bao giờ nặng lời. “

Đó là những câu trong bản thệ ước năm nào, tôi mỉm cười nhớ lại kỷ niệm.

“ Những tưởng sẽ bên nhau mãi mãi.  Ngờ đâu rồi ngày này cũng đến.  Nhưng số phận sinh ra là gái biết sao giờ.  Bách Hợp, trước đây mình là đôi ngỗng uyên ương nhưng giờ này tất cả đã thay đổi.  Trong những ngày tháng tới, bạn sẽ biết nhiều về tôi hơn.  Tôi bồn chồn lo lắng không biết bạn sẽ còn yêu tôi không.  Dù gì chăng nữa, lòng tôi đối với bạn sẽ không bao giờ thay đổi.

Tuyết Hoa”

Hèn chi mấy tuần nay nó ít nói.  Thì ra tại nó nghĩ tôi sẽ không thương nó nữa.  Làm gì có chuyện đó.  Ngồi trên kiệu hoa trên đường về nhà chồng, tôi biết chẳng có gì có thể thay đổi tình tôi với nó.  Tôi cảm thấy như có điềm gở và muốn thét kiệu phu quày đầu trở về để tôi có thể an ủi lão đồng của tôi.  

Nhưng kiệu đã trờ đến cổng làng Tùng Khẩu.  Bỗng nhiên pháo nổ vang rền, trống chiêng náo nhiệt.  Lũ gia nhân xúm xít khiêng giá trang vào để chồng tôi có thể mặc bộ trang phục hôn lễ tôi làm cho chàng.   Rồi tôi nghe tiếng gà bị cắt cổ và họ vấy máu gà chung quanh kiệu để trừ tà ma có thể đi theo tôi.  

Một người đàn bà mở cửa kiệu dìu tôi ra.  Trên nguyên tắc người làm việc này phải là một người có vai vế cao nhất làng.  Nhưng mẹ chồng tôi lại là người trưởng làng nên phải dùng một người đàn bà đông con nhất để ra mở cửa.  Bà dìu tôi bước qua ngạch cửa vào nhà.  Tôi dập đầu bái lạy cha mẹ chồng ba lần.  “ Con sẽ vâng lời và phụng mệnh cha mẹ.”  Tôi nói.
Sau khi tôi rót trà dâng cha mẹ chồng thì người nhà đưa tôi vào động phòng, để tôi ngồi đó và cửa thì mở.  Chẳng mấy chốc thì tôi sẽ gặp chồng tôi.  Giây phút đã chờ đợi từ lúc bà Vương đến nhà xem chân.  Nhưng sao tôi chỉ cảm thấy bối rối, lo lắng và mơ hồ.  Dĩ nhiên có tò mò vì chưa bao giờ gặp, hồi hộp vì chuyện phòng the sắp sửa phải làm, nhưng tôi cũng lo lắng cho lão đồng của tôi sau khi đọc lá thư.  

Tôi nghe tiếng người đẩy bàn để chắn cửa, rồi thấy cha mẹ chồng chất chăn cưới trên bàn và đặt hai chén rượu--cái cột chỉ xanh, cái cột chỉ đỏ, cả hai cột lại với nhau--trên đống chăn.

Chồng tôi tiến vào phòng ngoài trong tiếng reo hò của mọi người.  Chàng đứng ngoài kéo sợi chỉ đỏ, còn tôi đứng trong kéo sợi chỉ xanh.  Xong chàng nhảy lên đống chăn trên bàn rồi nhảy vào phòng.  Thế là chúng tôi đã chính thức thành hôn.  

Trong cái giây phút ban đầu đứng cạnh chồng, tôi thấy chàng tắm rửa sạch sẽ, thấy đôi hài tôi làm cho chàng trông thật đẹp và ống quần thì vừa vặn khít khao.  Kế tiếp là truyền thống Náo Loạn Động Phòng.  Một lũ bạn của chồng tôi xông vào phòng, mồm miệng nồng nực mùi rượu, chân nam đá chân chiêu.  Họ tặng củ lạc và quả chà là để có lắm con, cho kẹ̣o bánh để đời thêm ngọt.  Họ cột quà vào sợi dây rồi treo ngay trước miệng tôi.  Họ bắt tôi chồm tới ngoạm rồi lại giật đi.  Trong khi đó thì họ nói đùa tục tỉu như, tối nay thì chồng tôi sẽ khoẻ như trâu, còn tôi sẽ như con cừu, hay vú tôi trông như hai quả đào sắp căng đứt cúc áo, hay chồng tôi sẽ có nhiều hạt giống như một quả thạch lựu, hay làm tình thế nào để có con trai.  Đám cưới đâu cũng vậy.  Tôi ngoài mặt tươi cười nhưng trong bụng thì đánh lô tô.  

Bây giờ trời đã khuya.  Ngoài đường, dân làng vẫn ăn uống, vẫn nhảy múa, ăn mừng.  Một tràng pháo nổ vang, báo hiệu đã tới giờ ai về nhà nấy.  Cuối cùng thì bà Vương khép cửa động phòng và chỉ còn chồng tôi với tôi.

Chàng nói, “ Khoẻ không?”

Tôi nói, “ Dạ khoẻ”  

“ Em ăn chưa?”

“ Hai ngày nữa mới được ăn.”

“ Ăn củ lạc và chà là đi,” chàng nói.  “ Không nói ai đâu.”

Tôi lắc đầu làm chuông và dây bạc trên mũ kêu leng keng, rồi thấy chàng nhìn xuống chân tôi.  Ngượng chín người nhưng tôi nín thở, sợ chàng biết.  Cả hai chẳng ai nói điều gì một lúc lâu.  Cuối cùng chàng nói, “ Nghe nói em đẹp lắm.  Có vậy không?”

“ Giúp em tháo mũ xuống thì biết.”

Không cố ý nhưng nghe có vẻ hơi chanh chua, nhưng chồng tôi chỉ cười.  Sau khi nhấc mũ xuống thì chàng quay lại nhìn tôi.  Chàng nhìn trừng trừng vào mặt tôi và tôi cũng bạo gan nhìn thẳng mặt chàng.  Bà Vương và Tuyết Hoa nói đúng.  Mặt chàng không rỗ, da chàng không đen, gò má chàng cao và cằm chàng trông tự tin mà không trâng tráo.  Một làn tóc rối lòa xòa tinh nghịch rơi ngang trán cho chàng một vẻ bất cần đời và ánh mắt chàng thì long lanh vẻ diễu cợt.  

Chàng bước tới, cầm tay tôi, nói,  “ Anh nghĩ mình sẽ có hạnh phúc, em và anh.”

Một cô bé mười bảy tuổi người Dao còn muốn gì hơn nữa?  Như chàng, tôi thấy tương lai hai đứa rực rỡ.  Tối hôm ấy chàng theo đúng thủ tục, ngay cả việc tháo đôi hài cưới của tôi rồi đeo vào đôi hài đi ngủ màu đỏ.  Cảm giác tay chàng chạm vào chân còn thân ái hơn cái trò kế tiếp.  Tôi không biết chi mà chàng cũng chẳng biết gì.  Tôi tưởng tượng Tuyết Hoa sẽ làm gì nếu là người nằm dưới.

Ngày thứ hai, tôi thức dậy sớm để mặc chàng ngủ, và bước ra đại sảnh.  Tôi vừa đói vừa mệt và tứ chi rã rời.  Hai bàn chân tôi đau nhức vì mấy ngày qua phải đi nhiều.  Có một chỗ khác cũng đau nhưng tôi cố quên đi trong khi đi về hướng nhà bếp, nơi một con bé ở trạc độ mười tuổi đang ngồi sổm đợi tôi.  Nó là con ở của tôi--thế mà chẳng ai nói gì cả.  Dân làng Phổ Oai không có người ở, nhưng tôi nhận ra vì chân nó không bó.  Tên nó là Dũng Cang, có nghĩa là can đảm và mạnh như sắt.  Nó đã nhóm lửa lò than và gánh nước vào bếp.  Tôi chỉ việc nấu nước rồi đem lên cho cha mẹ chồng rửa mặt.  Tôi cũng nấu nước trà cho cả nhà, và khi họ xuống bếp thì tôi rót mà không vãi ra ngoài một giọt.

Chiều hôm đó, cha mẹ chồng tôi lại cho người mang lại Ba Má tôi một mâm thịt lợn và bánh trái.  Gia đình họ Lỗ thết tiệc tại tổ đường giòng họ nhưng tôi vẫn chưa được ăn.  Chúng tôi nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, rồi giao bái phu thê.  Cuối cùng chúng tôi đi chào bàn và mọi người đưa hồng bao.  Rồi lại trở lại động phòng.

Ngày thứ ba là ngày các cô dâu mong đợi, vì đó là ngày đọc sách-cưới-ngày-thứ-ba mà gia đình và bạn bè đã làm.  Tôi thì chỉ trông ngóng để có dịp gặp lại Tuyết Hoa.

Chị Lớn và vợ anh Cả đến trước, mang theo sách và thức ăn.  Nhiều phụ nữ Tùng Khẩu cũng nhập bọn với gia đình nhà chồng của tôi nhưng không thấy tăm hơi của Tuyết Hoa và mẹ nó đâu cả.  Tôi cảm thấy bị tổn thương nặng nề.  Một nghi thức sung sướng nhất trong các nghi thức hôn nhân mà tôi hoàn toàn không thấy chút gì thích thú.  Lão đồng tôi đã không có mặt.








11- Sự Thật


Đúng ra, đám cưới xong bốn ngày là phải về Phổ Oai, nhưng tôi đã hẹn sẽ sang nhà Tuyết Hoa trong tháng Ngồi Hát Trên Gác.  Càng gần đến ngày tôi càng bồn chồn.  Tôi diện chiếc áo lụa màu xanh, cái quần thêu cành trúc.  Ăn mặc không chỉ để khoe hàng xóm mà còn để ra vẻ lịch sự với gia đình Tuyết Hoa.  Con Dũng Cang đưa tôi đi qua những ngõ ngách Tùng Khẩu.  Nó khiêng một giỏ quần áo chất đầy chỉ thêu, vải vóc và cuốn sách-cưới-ngày-thứ-ba mà tôi đã viết cho Tuyết Hoa.

Tùng Khẩu đất rộng dân giàu hơn Phổ Oai nhiều.  Những con ngõ nhỏ sạch sẽ, không có gà vịt, heo bò chạy lông nhông.  Chúng tôi dừng trước một căn nhà y như lời tả của Tuyết Hoa-- một căn biệt thự hai tầng, yên ổn và sang trọng.  Tuy chưa rành lệ làng nhưng tôi biết không cần to tiếng gọi gia chủ hay phải gõ cửa báo danh.  Dũng Cang mở cửa bước thẳng vào nhà.  Tôi theo vào và lập tức một mùi là lạ xông lên mũi, mùi như đất ẩm lẫn với thịt oi, cộng thêm một mùi ngọt ngay.  Bụng tôi nhộn nhạo và mắt tôi quáng lên vì không chấp nhận nổi cảnh tượng trước mặt.  

Gian chính lớn hơn nhà tôi nhưng trống trơn.  Có một cái bàn mà không có ghế.  Ngoài cái lan can chạm trổ tinh xảo dẫn lên phòng phụ nữ ra thì chẳng còn gì khác.  Lò sưởi cũng lạnh tanh, mặc dù trời mùa thu đã trở lạnh.  Sàn nhà thì bẩn thỉu, thức ăn thừa vất la vất liệt.  Tôi thấy những cánh cửa he hé, có lẽ lối vào phòng ngủ.

Cảnh trong nhà nhìn bên ngoài không thể biết được và khác hẳn với những gì Tuyết Hoa đã tả.  Chắc nhầm nhà rồi.

Hầu hết những cửa sổ trong nhà đã bị dán kín.  Chỉ còn một cánh còn mở để lọt vào một tia sáng soi thấu bóng tối âm u.  Trong bóng tối mờ mịt, tôi thấy một người đàn bà ngồi xổm cạnh chậu giặt.  Bà mặc quần áo quê mùa vá chằng vá chịt.  Bốn mắt vừa chạm nhau thì bà vội ngoảnh mặt đi chỗ khác rồi cúi đầu đứng dậy trong vùng ánh sáng, cho thấy một làn da trắng như men sứ.  Bà chắp tay và cúi đầu.

“ Cô Bách Hợp, hân hạnh, hân hạnh.”  Bà nói nhỏ giọng, không phải vì úy kỵ thân phận mới có được của tôi, mà là một giọng kìm hãm vì sợ sệt.  “ Đợi đây.  Tôi đi gọi Tuyết Hoa.”

Tôi cảm thấy bàng hoàng cả người.  Rõ ràng là nhà Tuyết Hoa rồi.  Sao có thể vậy được?  Khi người đàn bà đi lên lầu, tôi thấy được đôi chân của bà nhỏ không thua tôi, đôi gót sen mà một người đầy tớ không thể có được.

Tôi nghe tiếng bà gọi ai trên lầu.  Rồi có tiếng mà tai tôi không thể nghe lầm được-- giọng Tuyết Hoa nghe như lì lợm và cau có.  Sốc, tôi thực sự bị sốc.  Nhưng ngoài âm thanh quen thuộc đó ra thì căn nhà yên lặng một cách quái dị.  Trong cái tịch mịch có một cái gì như hồn ma bóng quế bay về từ cõi âm.  Cả người tôi kháng cự, da tôi nổi gai ốc.  Bộ quần áo mặc để khoe với gia đình Tuyết Hoa không đủ để chống lại cái lạnh  trong nơi chốn ẩm mốc, tối tăm, hôi hám, và kinh dị này.

Tuyết Hoa xuất hiện trên trốc cầu thang.  “ Lên đây,” nó gọi vọng xuống.
Tôi đang đứng đông cứng, cố hiểu cái mình thấy, thì có người giật tay áo tôi.
“ Con nghĩ đại gia không muốn con để bà lại đây đâu,” Dũng Cang nói, mặt lộ vẻ lo lắng.
“ Đại gia biết ta đi đâu rồi,” tôi trả lời không suy nghĩ.
“ Bách Hợp,” Giọng Tuyết Hoa trĩu nặng một màu u sầu tuyệt vọng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.  

Lời mẹ tôi nói mấy ngày trước đột nhiên loé lên trong tâm tưởng.  Mẹ tôi nói, làm đàn bà không thể tránh không gặp những cái không đẹp và phải can đảm.  “ Con đã thề có nhau suốt đời,” bà nói.  “ Hãy cư xử cho đúng là một phu nhân.”  Thì ra mẹ đâu có nói chuyện phòng the.  Mẹ nói cái này.  Tuyết Hoa là lão đồng xuốt đời của tôi.  Tôi yêu nó bằng một mối tình sâu xa và mạnh mẽ hơn cả tình yêu dành cho chồng tôi.  Đó mới là đúng nghĩa kết nghĩa tỉ muội.

Khi tôi vừa dợm bước thì nghe tiếng Dũng Cang như đang rên rỉ.  Tôi không biết phải làm gì vì trước giờ chưa bao giờ có đầy tớ.  Tôi vỗ vai nó một cách lưỡng lự.  “ Đi về đi,” Tôi cố ra vẻ bà chủ mặc dù chưa quen.  “ Ta không sao đâu.”
“ Nếu phải về, phu nhân chỉ việc ra ngoài gọi ới một cái,” Dũng Cang vẫn còn chưa yên bụng, đề nghị.   “ Ở đây ai cũng biết Lỗ đại nhân và Lỗ phu nhân.  Họ sẽ đưa cô về.”

Tôi với tay lấy cái giỏ.  Khi nó vẫn chưa nhúc nhích, tôi thúc cho nó đi. Nó thở dài chịu thua, cúi đầu ra khỏi cửa, và đi mất.
Tay cầm chặt rổ, tôi trèo lên lầu.  Khi tới gần, tôi thấy má Tuyết Hoa còn ngấn dấu lệ.  Nó ăn mặc bộ quần áo màu xám xốc sếch và vá víu như bà gia nhân.  Tôi đứng lại giữa bực thang.
“ Không có gì thay đổi,” tôi nói.  “ Mình vẫn là lão đồng.”

Nó cầm tay tôi, dìu lên bậc cuối cùng, rồi dắt tôi vào phòng.  Căn phòng to gấp ba lần căn phòng ở nhà Ba Má tôi, và có một thời chắc cũng dễ thương.  Thay vì chấn song, cửa sổ được che bởi một bức mành bằng gổ chạm. Ngoài một cái giường và bánh xe quay tơ thì căn phòng hoàn toàn trống trơn.  Người thiếu phụ đẹp mà tôi thấy ban nãy, đang ngồi một cách thanh nhã trên cạnh giường, hay tay xếp gọn trên đùi.  Bộ quần áo nhà quê không che dấu nổi nét quí phái.

“ Bách Hợp,” Tuyết Hoa nói.  “ Đây là mẹ tôi.”
Tôi đi lại gần, khoanh tay cúi đầu chào người đã sinh thành ra lão đồng của tôi.
“ Cô phải tha lỗi cho tình huống của chúng tôi,” mẹ Tuyết Hoa nói.  “ Nhà chỉ có trà thôi.”
Bà đứng dậy.  “ Mấy đứa chắc có nhiều chuyện để hàn huyên.”  Nói xong, bà đi với dáng uyển chuyển của một người có đôi chân bó tuyệt hảo.

Khi tôi rời nhà cha mẹ đẻ bốn ngày trước đây, mặt tôi đã đầm đìa nước mắt vì buồn vui lẫn lộn.  Giờ này, khi ngồi với Tuyết Hoa trên giường, tôi chỉ thấy những giọt lệ ân hận, tội lỗi, và xấu hổ.  
Tôi muốn thét to.  Nói cho tôi nghe coi.  Nhưng tôi chờ đón vì biết rằng mỗi lời Tuyết Hoa nói ra sẽ làm nó mất hết chút ít thể diện còn lại.

“ Hồi xưa, “ cuối cùng Tuyết Hoa nói, “ gia đình tôi thuộc loại khá giả nhất huyện.  Như bạn chắc cũng thấy” ---nó đưa tay chỉ chung quanh một cách bất lực---” căn nhà này rất sang trọng.  Gia đình tôi có tiền có của.  Ông cố tôi làm quan được Hoàng Đế ban cho không biết bao nhiêu là mẫu ruộng.”
Tôi ngồi nghe mà đầu óc quay cuồng.

“ Khi Hoàng Đế băng hà thì ông cố tôi không còn được trọng dụng nên về hưu.  Đời sống cũng thoải mái.  Khi cụ mất thì ông nội tôi thừa hưởng gia tài.  Nhà có nhiều kẻ ăn, người làm.  Ông nội có ba người thiếp, nhưng chỉ sanh ra con gái.  Cuối cùng thì bà tôi đẻ được một đứa con trai và nhờ đó mà vị thế được củng cố.  Họ lấy mẹ tôi về làm vợ cho con trai.  Người ta so sánh mẹ tôi với Tứ Đại Mỹ Nhân, vừa có sắc, lại có tài, khiến Hoàng Đế cũng mê mẩn tâm thần.  Cha tôi không đỗ đạt nhưng làu thông kinh sử.  Người ta nói một ngày thế nào ông cũng sẽ là tiên chỉ của Tùng Khẩu.”

Đôi mắt Tuyết Hoa trở nên xa vời khi nhắc lại một dĩ vãng xa xôi không còn nữa.  “ Tôi sanh ra được hai năm thì ông bà tôi mất,” nó tiếp tục.  “ Nhà tôi không thiếu một thứ gì-- gấm vóc lụa là, thức ăn thừa mứa, người ăn kẻ ở.  Cha mang tôi đi du ngoạn; mẹ mang tôi lên Đền Khưu Phố.  Còn bé mà tôi đã học hỏi được nhiều.  Nhưng cha tôi phải nuôi ba bà thiếp của ông tôi và gả chồng cho bốn chị gái ruột và năm chị em gái cùng cha khác mẹ.  Ông còn phải nuôi ăn nuôi ở cho tá điền và gia nhân.  Ông muốn cho người ta thấy mình là đại gia nên bỏ nhiều tiền cho đám cưới.  Ông bắt đầu bán ruộng bán vườn cho những phú ông khác để mua gấm vóc và lợn thịt làm của hồi môn.  Mẹ tôi--bạn đã gặp thì chắc thấy--bề ngoài có đẹp nhưng sống một đời sống được nuông chiều quen rồi, như tôi khi xưa.  Cha tôi---” Tuyết Hoa ngập ngừng, rồi nói toạc ra, “ Cha tôi bắt đầu hút thuốc phiện.”

Tôi nhớ lại ngày bà Cao mồm loa mép giải, nói xấu gia đình Tuyết Hoa.  Bà nhắc đến chuyện cờ bạc, thê thiếp và hút sách cũa bố Tuyết Hoa.  Hồi đó tôi mới có chín tuổi, tưởng nói ông ấy hút thuốc lá.  Giờ mới hiểu là mọi người đã biết, trừ tôi.  
“ Cha bạn còn sống không?” Tôi hỏi.
Nó gật đầu nhưng không nói thêm.
“ Ổng dưới nhà hả?” Tôi hỏi, nhớ đến cái mùi lạ lùng và ghê tởm dưới nhà.
Nó im lặng, rồi khẽ nhướng mày.  Đúng vậy.

“ Bạn có nhớ nạn đói không?” Tuyết Hoa nói.  “ Hồi đó mình chưa gặp nhau.  Cả vùng bị mất mùa sau một mùa đông tàn bạo.”

Làm sao tôi quên được? Hôm nào có chút cháo nấu với củ cải khô là may mắn lắm rồi.  

“ Cha tôi hoàn toàn không chuẩn bị,” Tuyết Hoa nói.  “ Ổng mê hút sách, bỏ bê gia đình.  Mấy bà thiếp ông nội tôi bắt đầu bỏ đi.  Có thể họ về quê, nhưng cũng có thể họ đã chết bờ chết bụi đâu đó không biết chừng.  Sang Xuân thì chỉ còn cha mẹ và anh chị em tôi là còn ở lại trong nhà.  Bề ngoài tuy còn hào nhoáng nhưng nhà tôi nợ như chúa chổm.  Cha tôi bán hết ruộng nương, cuối cùng chỉ còn căn nhà.  Đến lúc bấy giờ thì ông yêu nàng tiên nâu hơn yêu gia đình.  Thoạt tiên còn cầm cố đồ đạc, sau ông định bán cả tôi.”
“ Bán làm người ở hả?”
“ Người ở còn đỡ.  Bán làm con-dâu-nhỏ, một thứ nô lệ tình dục.”

Tôi không thể tưởng tượng được một số phận nào có thể kinh khủng hơn: chân thì không bó, sống trong nhà người ta để thành một cái máy đẻ, ăn nằm với bất cứ người đàn ông nào trong nhà, còn tệ hơn là đầy tớ.  

“ May nhờ có bà dì cứu vớt,” Tuyết Hoa nói.  “ Sau khi bạn và tôi thành lão đồng, dì tôi làm mối cho chị cả tôi lấy chồng gia đình cũng tàm tạm.  Chị ấy không bao giờ trở về.  Sau dì tôi gởi anh cả tôi đi học nghề ở Thượng Giảng Tự.  Còn em trai tôi đang làm tá điền cho gia đình nhà chồng của bạn.  Em tôi chết, như bạn đã biết--”

“ Còn bạn? Tương lai bạn sẽ ra sao?”
“ Dì tôi mang tương lai tôi ra đổ xí ngầu.  Cha tôi không đồng ý, nhưng dì Vương thì bạn cũng biết mà.  Một khi quyết định rồi thì chỉ có trời cản.”
“ Dì Vương?”  Tôi ngạc nhiên đến sững sờ.  “ Dì Vương, bà mối?”
“ Dì ấy là em của mẹ tôi.”

Tôi bóp hai thái dương.  Lần chúng tôi đi Đền Khưu Phố tôi nhớ nó gọi bà mối là dì.  Tôi lại cứ tưởng gọi cho lễ phép nên cũng bắt chước.  Tôi thấy mình thật làngu si đần độn.  
“ Vậy mà bạn không nói tôi biết,” tôi nói.

“ Về dì Vương? Tôi tưởng cái đó bạn biết rồi.”

Tôi tưởng cái đó bạn biết rồi.  Tôi cố hiểu những chữ đó.

“ Dì Vương đã thấy rõ con người của cha tôi,” Tuyết Hoa nói tiếp.  “ Biết là ông nhu nhược.  Dì cũng hiểu tính tôi không thích vâng lời, không giỏi nữ công gia chánh, nhưng được mẹ dạy thêu thùa, ăn mặc, cách cư xử với đàn ông, và nữ thư.   Tuy chỉ là đàn bà nhưng dì tôi làm nghề mai mối nên đầu óc giỏi tính toán.  Dì tiên liệu trước được chuyện sẽ xảy ra cho gia đình tôi và bắt đầu đi tìm lão đồng cho tôi, hy vọng là người ta sẽ thấy tôi có học, trung thành, vâng lời---”
“ Và có thể làm dâu được,” tôi ngắt lời.  Trường hợp tôi cũng vậy thôi.
“ Dì đi lùng kiếm khắp nơi cho đến khi được ông thầy bói nói về bạn.  Gặp bạn xong thì dì quyết định liên kết đời tôi vào đời bạn.”
“ Tôi không hiểu.”
Tuyết Hoa cười rầu.  “ Số bạn sẽ đi lên trong khi số tôi đang trên đường đi xuống.  Khi mới gặp tôi chẳng biết gì.  Tôi phải học hỏi nơi bạn.”
Bạn mới là người dạy tôi.  Nét thêu của bạn đẹp hơn, nữ thư bạn cũng giỏi hơn tôi.  Bạn dạy tôi cách sống trong một gia đình sang trọng---”
“ Còn bạn, bạn đã dạy tôi gánh nước, giặt giũ, nấu ăn và lau nhà. Tôi cố dạy mẹ tôi nhưng không được. ”

Tôi biết mẹ Tuyết Hoa vẫn còn bám víu vào một cái dĩ vãng không còn nữa, nhưng nghe Tuyết Hoa kể chuyện gia đình thì tôi thấy chính lão đồng của tôi cũng nhìn cuộc đời qua lăng kính màu hồng của những kỷ niệm đẹp, vẫn tin là thế giới người phụ nữ phải đẹp và không vướng bận.  Có lẽ nó nghĩ rồi mọi chuyện cũng sẽ qua.

“ Tôi học của bạn những cái cần biết cho một cuộc đời mới,” Tuyết Hoa nói, “ Chỉ có cái là vẫn chưa dọn dẹp giỏi bằng bạn.”
Quả vậy, nó lau chùi không kỹ.  Tôi tưởng nó cố tình không để ý đến căn nhà bề bộn của chúng tôi.  Giờ mới hiểu, nó cố quên đi hết để khỏi phải chấp nhận thực tại xấu xa trước mắt.

“ Tại nhà bạn rộng, khó lau chùi, mà bạn chỉ là một đứa con gái tuổi cài trâm,” tôi cố cãi chày để nó vui lòng.  “ Bạn đã---”
“ Mẹ thì không nhúng tay đến cái gì, cha thì nghiện ngập, và anh chị em từ từ bỏ đi.”
“ Nhưng bạn sắp lấy---”

Thình lình tôi nhớ lại ngày mà bà Cao cãi nhau với bà Vương trên gác.  Hồi đó bả nói gì về nhà chồng tương lai của Tuyết Hoa?  Còn Tuyết Hoa thì không bao giờ đá động tới chuyện ấy.  Tôi chợt có một ý tưởng khủng khiếp trong đầu.  Chắc Tuyết Hoa sẽ phải về làm dâu cho một gia đình thấp kém.  Vấn đề là thấp kém cỡ nào?

Tuyết Hoa như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi.  “ Dì tôi đã cố gắng hết mình.  Tôi không phải lấy người làm ruộng.”
Tôi hơi chạm tự ái vì cha tôi là nông gia.
“  Con buôn hả?”  Nghề con buôn kể cũng hơi đê tiện, nhưng chồng là con buôn có thể cứu vãn tình huống ít nhiều.
“ Tôi sẽ lấy chồng làng Kim Điền, nhưng gia đình nhà chồng tôi” ---nó ngập ngừng--” gia đình nhà chồng tôi làm nghề đồ tể.”

Trời ơi.  Không gì có thể tệ hơn được.  Nghề đồ tể tuy có tiền nhưng bẩn thỉu và kinh tởm.  Tôi bỗng nhớ lại “ Truyện Chàng Vương”   Giờ tôi hiểu câu chuyện kể không để tôi nghe mà cho Tuyết Hoa.
Tôi choàng tay ngang vai bạn.  “ Tối thiểu không bao giờ đói,” tôi nói.  “ Chưa sao.  Kể vẫn còn may.” Tôi nói mà chẳng biết mình nói gì.  
Nó gục mặt vào vai tôi thổn thức. Lát sau nó đẩy mạnh tôi ra.  Đôi mắt nó ngấn lệ, nhưng tôi không thấy sầu thảm mà chỉ thấy vẻ hung hãn.
“ Đừng có thương hại.  Tôi không cần đâu.”

Tôi không thấy thương hại mà chỉ thấy buồn và xáo trộn.  Lá thư của nó làm đám cưới tôi mất vui.  Việc nó không tham dự buổi đọc sách-cưới-ngày-thứ-ba làm tôi cảm thấy bị tổn thương.  Và bây giờ vụ này.  Tôi thấy như bị phản bội.  Bao nhiêu đêm ngủ chung giường sao nó không nói?  Bộ nó không thấy số phận đã an bài hay sao? Bộ tưởng cứ nhắm mắt làm ngơ thì sẽ qua đi à?  Hay là nó dấu giếm chỉ để cố giữ thể diện, hy vọng là ngày này sẽ không bao giờ tới?

Có thể tại tôi nghĩ mình được trời cho cơ hội để có một tương lai đặc biệt, nên chỉ biết đến mình mà không để ý việc xảy ra ngay trước mắt.  Chẳng phải đó là thiếu xót của chính mình--của một lão đồng--khiến mình không hỏi cho ra lẽ về tương lai và quá khứ của bạn chăng?

Tôi mới có mười bảy tuổi.  Tôi sống cả đời mình trên gác với những người đàn bà quyết định tương lai cho tôi.  Nhưng khi tôi nghĩ đến họ, người duy nhất có thể đổ lỗi là mẹ tôi.  Có thể bà Vương có đánh lừa lúc đầu, nhưng sau mẹ tôi đã biết sự thật mà không hề nói cho tôi biết.  Tất cả chỉ để tôi an tâm lấy chồng để có lợi cho cả nhà.

Lúc đó tâm hồn tôi cực kỳ xáo trộn và có lẽ có ảnh hưởng đến những sự việc xảy ra sau này.  Tôi chẳng biết gì.  Tôi chỉ là một đứa con gái ngây ngô, tưởng là có chồng là biết hết.  Tôi không biết giải quyết làm sao nên đem chôn chặt trong đáy lòng.  Nhưng tình cảm nào đã có--không thể-- biến mất.  Giống như nuốt phải thịt lợn bệnh để rồi bệnh từ từ phá nát ruột gan.

Lúc ấy tôi đâu đã là Lỗ Phu Nhân như bây giờ, một người được mọi người kính trọng vì tính tình hòa nhã, lòng thương người, và sự quả cảm.  Nhưng, từ lúc đặt chân vào nhà Tuyết Hoa là tôi đã cảm thấy có gì mới lạ bên trong.  Nghĩ đến miếng thịt lợn có bệnh thì sẽ hiểu.  Tôi phải làm bộ mình không bị bệnh nên dùng ý chí cho việc nghĩa.  Tôi muốn làm việc từ thiện và tốt với kẻ thua kém, ngõ hầu có thể mang lại tiếng thơm cho gia đình nhà chồng.  Dĩ nhiên lúc ấy chưa biết làm sao, vì việc làm này vẫn chưa đến tự nhiên với tôi.  

Còn một tháng nữa là tới đám cưới Tuyết Hoa nên tôi giúp hai mẹ con nó dọn dẹp sạch nhà cửa để chuẩn bị đón tiếp nhà trai.  Nhưng cái mùi lưu cữu của thuốc phiện và cứt đái đã ám chặt vào tường, dù có mở cửa hay đốt giấm cũng không thể che đậy được cái thói quen bệnh hoạn khốn nạn của con người ấy được.  

Tôi thấy người đàn ông ấy, nằm giữa những thối tha bẩn thỉu của chính mình.  Tôi chứng kiến vẻ sợ hãi và tiếng nói thì thầm của hai người đàn bà, run rẩy khi hắn gọi.  Hắn vẫn là một thằng bé hư hỏng mặc dù sự nghiệp, cơ đồ không còn nữa.  

Tôi cố không để lộ tình cảm của mình ra ngoài.  Nhà này không cần thêm nước mắt của tôi.  Tôi nói Tuyết Hoa mang đồ sính lễ ra tôi xem.  Biết đâu gia đình đồ tể này cũng không đến nỗi nào.  Tuyết Hoa mở một cái rương gỗ và xếp cẩn thận tất cả những gì đã làm lên giường.  Tôi thấy đôi hài lụa màu thiên thanh có thêu những đám mây mà nó làm trong ngày Diễm Nguyệt chết.  Tôi thấy một chiếc áo khoác, phía trước có cùng mảnh lụa; rồi Tuyết Hoa xếp năm đôi hài to nhỏ khác nhau làm bằng cùng loại vải, chỉ khác kiểu thêu.  Tất cả trông quen thuộc, và tôi chợt hiểu ra.  Tất cả những cái này đã làm từ chiếc áo chùng nó mặc lần đầu đến nhà tôi.  

Tay tôi mân mê những vật sính lễ khác.  Này là loại hàng màu đỏ và trắng làm từ bộ quần áo du lịch của Tuyết Hoa khi lên chín tuổi, giờ được cắt lại làm thành áo lá và giầy.  Kia là vải dệt màu chàm mà tôi thích nhất, đã được cắt thành dải để may vào áo khoác, mão, giải và trang trí cho chăn.  Đồ sính lễ của Tuyết Hoa không có mấy, nhưng nó đã cắt quần áo ra làm một thứ giá trang đặc biệt.

“ Bạn sẽ là một người vợ trác tuyệt,” tôi nói, thầm phục nó.
Lần đầu tiên, Tuyết Hoa phá lên cười.  Tôi vẫn yêu cái giọng cười ấy.  Tôi cười theo, vì tất cả xẩy ra ngoài sức tưởng tượng của tôi.  Tình huống của Tuyết Hoa vừa bi thảm nhưng đồng thời cũng khôi hài và kinh ngạc.
“ Đồ đạc của bạn---”
“ Thực sự cũng chẳng phải của tôi,” Tuyết Hoa trả lời trong khi cố nín cười.  “ Mẹ tôi đã cắt lại của sính lễ của chính bà để làm quần áo cho tôi khi đến thăm bạn.  Và bây giờ tôi cắt lại cho chồng và nhà chồng.”

Thì ra là thế.  Tôi nhớ hồi đó đã nghĩ loại vải này quá người lớn cho một đứa con gái nhỏ.  Tôi quả là dốt.  Tôi lấy tay ôm mặt và lăn ra cười.

“ Bạn có nghĩ là mẹ chồng tôi để ý biết không?” Tuyết Hoa hỏi.
“ Nếu tôi không biết thì---”  tôi không nói hết câu vì tức cười quá.

Có lẽ đó là chuyện khôi hài mà chỉ có phụ nữ mới hiểu được.  Chúng tôi bị xem là vô dụng.  Dù bố mẹ đẻ có thương yêu nhưng vẫn là gánh nặng.  Lấy vào một gia đình mới, về với một người chồng chưa hề thấy mặt, chăn gối với một người lạ, và vâng lời, phụng mệnh mẹ chồng.  Nếu may mắn thì có được con trai để còn nở mày nở mặt với gia đình nhà chồng.  Còn không thì sẽ bị mẹ chồng rẻ rúng, thiếp của chồng dè bỉu, và nhìn thấy những khuôn mặt thất vọng của con gái mình.  Chúng tôi sống nhờ vào lòng thương hại của người khác.  Đó là lý do tại sao cái mà hai mẹ con Tuyết Hoa đã làm thật là không ngờ.  Họ lấy vải vóc sính lễ của mẹ làm thành gíá trang, rồi lại sửa thành quần áo cho con gái, và giờ này lại một lần nữa biến thành của hồi môn cho một người con gái đẹp lấy vào một gia đình đồ tể ô uế.  Tất cả đã do công lao của đàn bà để thay đổi cuộc đời của chính họ.

Nhưng vẫn chưa đủ.  Tuyết Hoa cần quần áo mặc khi về nhà chồng.  Tôi nghĩ nát óc kiếm cách nào có thể làm được trong vòng một tháng.
Khi bà Vương đến nhân dịp Hát Ca Trên Gác, tôi kéo bà ra một bên, năn nỉ bà về nhà bố mẹ đẻ của tôi.  “ Đây là những cái tôi cần---”

Đây là người đàn bà đã xét na xét nét tôi bấy lâu nay và còn nói dối với gia đình tôi, nói dối với tôi.  Trước đây tôi đã không thích, giờ còn ghét hơn vì sự gian xảo của bà, nhưng bà đã làm y lời tôi dặn.  Vì giờ tôi có uy quyền trên bà xa lắc.  Vài tiếng sau bà trở lại mang theo một giỏ bánh nhân thịt đám cưới, thịt lợn thái lát của nhà chồng cho, rau vườn nhà, và một giỏ chất đầy quần áo mà tôi định sẽ cắt khi về nhà.  Tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng nhìn mẹ Tuyết Hoa ăn thịt.  Dù đã đói khủng khiếp như bà không xé thịt ăn ngấu nghiến như người ta.  Bà dùng đũa tách nhẹ một miếng thịt nhỏ, rồi khoan thai đưa lên miệng.  Tôi học một bài học về sự tự kỷ mà vẫn dùng cho tới giờ.  Cho dù cuộc đời có đi vào chỗ tuyệt vọng nhưng giấy rách vẫn phải giữ lấy lề, vẫn ra vẻ một người đàn bà quí phái.  

Tôi vẫn chưa xong.  “ Mình cần con gái cho dịp Hát Ca Trên Gác,” tôi nói.  “ Bà cho gọi chị cả Tuyết Hoa về được không?”
“ Nhà chồng chị ấy không cho phép chị về nhà này.”
Tôi suy nghĩ.  Chưa nghe ai nói chuyện này bao giờ cả.
“ Vẫn cần con gái,” tôi nói.
“ Chẳng ai chịu đến hết, cô Bách Hợp ạ.” Bà Vương nói.  “ Anh rể tôi quá tai tiếng nên chẳng gia đình nào chịu cho con gái chưa chồng của mình bước vào nhà này.  Thế còn mẹ và thím của cô thì sao? Họ không lạ gì tình huống ---”
“ Không.”  Tôi chưa sẵn sàng đối phó với gia đình tôi và Tuyết Hoa không cần sự thương hại của họ.  
Tôi lấy tiền đám cưới, dúi vào tay bà Vương.  “ Chưa kiếm ra ba đứa con gái thì đừng có trở về.  Trả tiền họ đàng hoàng.  Nói bố mẹ họ tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.”

Tôi biết vị thế con dâu một gia đình danh giá nhất Tùng Khẩu có khả năng thuyết phục không nhỏ, nhưng gia đình nhà chồng nào có biết tôi sử dụng tên tuổi họ cho việc này.  Bà Vương đắn đo suy nghĩ.  Bà phải làm ăn ở đây và đang sắp sửa nhận lỡi do việc mai mối tôi cho nhà họ Lỗ.  Một mặt bà không muốn liên lụy đến vị trí của bà, nhưng mặt khác đã len lỏi bao nhiêu ngách lối để giúp đứa cháu gái.  Cuối cùng thì bà gật đầu rồi đi.
Một ngày sao bà trở lại, mang theo ba đứa con gái của tá điền làm cho nhà chồng tôi.  Nói cách khác, giống như tôi khi trước, chỉ khác cái không có cái lợi thế đặc biệt.  

Tháng đó, tôi đã cố gắng hết sức mình.  Tôi hát với tụi con gái.  Tôi giúp chúng tìm lời hay để viết về Tuyết Hoa trong cuốn-sách-ngày-cưới-thứ-ba.  Có chữ nào không biết thì tôi viết cho.  Nếu có vẻ lơ là trong công việc làm chăn thì tôi lôi chúng ra ngoài và nói nhỏ là cha chúng sẽ bị phạt nếu chúng không làm việc cho ra hồn.

Còn nhớ hồi đám cưới chị Lớn của tôi không?  Tuy chị có buồn nhưng hôn nhân của chị không đến nỗi.  Khúc ca của chị không quá bi thảm mà cũng không tràn trề hạnh phúc, nó trung bình như tương lai của chị.  Tâm trạng tôi đối với hôn nhân hơi lộn xộn.  Phải xa gia đình tuy có buồn thật, nhưng tôi cũng thích thú với một cuộc đời khá hơn.  Tôi hát những khúc hò ca tụng công ơn dưỡng dục của cha mẹ.  Trường hợp Tuyết Hoa thì khác hẳn.  Không ai có thể chối cãi là tương lai của nó rất mù mịt, do đó những khúc ca chất chứa u sầu và ảm đạm.

“ Mẹ ơi, “ Tuyết Hoa hò, “ Bố quên không trồng con trên sườn đồi đầy nắng ấm, nên con sẽ phải sống đời trong bóng râm.”
Mẹ nó hò đáp.  “ Đúng thế, chẳng khác nào hoa đẹp mà cắm bãi cứt trâu.”

Trời mỗi ngày một lạnh hơn.  Em trai Tuyết Hoa ghé thăm và dán giấy kín cửa sổ.  Nhưng khí ẩm vẫn len lỏi vào.  Ngón tay chúng tôi đỏ lên vì lạnh.  Ba đứa con gái sợ, không dám nói gì.  Tôi đề nghị xuống bếp để có thể sưởi ấm cạnh bếp lò.  Bà Vương và mẹ Tuyết Hoa răm rắp tuân theo cho thấy uy quyền của tôi bây giờ cũng đáng kể.

Ngày xưa tôi đã làm sẵn một cuốn sách-cưới-ngày-thứ-ba cho Tuyết Hoa với những lời chúc tụng tràn trề hy vọng cho một tương lai hạnh phúc.  Những điều này không còn thích hợp nữa nên tôi phải làm lại.  Tôi cắt vải chàm làm bìa, lấy kim chỉ khâu giấy bản lại với nhau, rồi dán giấy đỏ bên trong trang bìa.  Trang đầu viết lời giã biệt, trang thứ hai giới thiệu cô dâu với gia đình nhà chồng, và những trang còn lại để trống cho nó viết và giữ kiểu thêu.  Tôi mài mực rồi viết bằng nữ thư.   

Khi ba mươi ngày đã qua thì Ngày Lo Buồn bắt đầu.  Tuyết Hoa ở trên gác.  Mẹ nó ngồi trên bực thang dẫn lên phòng đàn bà.  Những câu hò của chúng tôi đã khá thuần thục.  Mặc cho lời dọa dẫm của cha Tuyết Hoa, tôi cất cao giọng hò để nói lên tâm trạng và lời nhắn nhủ.
“ Gái ngoan không chê chồng kém,” tôi hát, dựa theo ý bài `Truyện Vợ Chàng Vương.` “ Hãy giúp gia đình mình.  Phục vụ và phục tòng chồng mình.”
Mẹ và dì Tuyết Hoa phụ họa theo.  “ Gái ngoan phải vâng lời,” họ cùng hát.  Nghe hai giọng hòa điệu đủ biết tình cảm chân thành của hai chị em với nhau.  “ Mình phải ở trên gác để trau giồi nữ công,  giữ lòng trinh trắng và khiêm cung.  Tuân lời cha mẹ đi lấy chồng.  Đó là số phận.  Sang nhà chồng, một thế giới mới trải ra--có khi tốt, có khi xấu.”

“ Chúng ta đã có những ngày xuân bên nhau,” tôi nhắc nhở Tuyết Hoa.  “ Hết năm này đến năm kia, hai ta không hề xa cách.  Giờ này cũng vậy.” Tôi nhớ lại những lời thệ ước viết trên nép quạt và bản ký kết lão đồng.  “ Ta sẽ vẫn thì thầm, vẫn chọn chỉ, chọn màu, luồn kim, cùng thêu.”

Tuyết Hoa xuất hiện trên trốc thang.  Giọng nó như bay về phia tôi.  “ Những tưởng mình sẽ cùng nhau sải cánh bay--hai con phượng hoàng giang cánh rộng--mãi mãi.  Giờ tôi như tảng đá chìm xuống đáy ao.  Bạn nói mình sẽ cùng nhau như trước.  Tôi chỉ sợ ngạch cửa không đồng đều.”

Nó chậm rãi đi xuống, ngồi cạnh mẹ.  Tôi tưởng thế nào nó cũng khóc tức tưởi, nhưng không.  Nó choàng tay mẹ rồi ngồi nghe mấy con gái ruộng hát tiếp.  Tôi hơi thắc mắc với thái độ dửng dưng của nó.  Có thể nó sẽ nhớ mẹ nhưng chắc chắn không nhớ ông bố ác độc đó.  Mà Tuyết Hoa cũng cầm tinh con ngựa như tôi.  Nhưng ngựa tôi chạy dưới đất còn ngựa nó có cánh, muốn bay bổng và chống lại bất cứ cái gì trì kéo lại.

Hai ngày sau, kiệu hoa đến rước nó đi.  Nó vẫn không khóc than trước chuyện chẳng đặng đừng.  Nó đứng ngần ngừ lại trong giây lát trước đám người thưa thớt một cách thảm hại, rồi bước lên chiếc kiệu trang hoàng sơ sài.  Kiệu chưa mất hút thì ba đứa con gái được mướn đã ba chân bốn cẳng chạy về nhà.  Mẹ Tuyết Hoa đi vào nhà để lại tôi đứng một mình với bà Vương.

“ Nương tử chắc nghĩ tôi là một con mụ già nham hiểm,” bà mối nói.  “ Nhưng nương tử phải biết một điều là tôi không hề dấu diếm với mẹ và thím của cô.  Ngay chính số phần mình còn lo chưa xong, nói chi số phần người khác, nhưng---”
Tôi đưa tay cản không cho lải nhải tiếp, vì có điều tôi muốn biết.  “ Hồi đó bà đến nhà tôi coi chân---”
“ Cô muốn hỏi là cô có thực sự đặc biệt không?”
Khi tôi gật đầu thì bà nhì tôi bằng cặp mắt đanh thép.

“ Kiếm được lão đồng không phải chuyện dễ,” bà nói.  “ Tôi cho thầy bói đi khắp nơi tìm người để chọn cho cháu tôi.  Thực tình mà nói, tôi muốn kiếm một gia đình sang trọng hơn, nhưng Thày Hồ đã tìm thấy cô.  Bát tự của cô hợp khít khao với cháu tôi.  Nhưng dù không thì ông ấy cũng liên lạc với tôi, bởi vì, đúng, chân cô quả có đặc biệt.  Số mạng cô chắc chắn sẽ đổi, có hay không có cháu gái tôi làm lão đồng.  Tôi chỉ mong số phận của nó được thay đổi phần nào nhờ quen .  Tôi có thủ đoạn thật, nhưng chỉ để nó có một cơ hội nho nhỏ.  Tôi cẽ không bao giờ xin lỗi chuyện đó.”

Tôi nhìn trừng trừng vào bộ mặt trét đầy phấn của bà Vương, muốn ghét mà không sao ghét được vì bà đã cố lo cho người mà tôi yêu hơn bất cứ cái gì khác trên thế gian này.

Chị cả của Tuyết Hoa không chịu đem trao cuốn tam triêu thư, cuốn sách đám cưới ngày thứ ba nên tôi phải đi thay.  Ba Má tôi cho kiệu đến rước nên chẳng mấy chốc đã đến Kim Điền.  Trong làng yên ắng không trang hoàng, không chiêng trống, không ca hát.  Tôi bước ra khỏi kiệu xuống con đường đất trước một căn nhà mái thấp, củi chất đống một bên tường.  Bên phải là một cái chảo khổng lồ đặt trên lò gạch.  

Đúng lý ra phải có một bữa tiệc thịnh soạn để đón tôi. Chẳng thấy gì hết.  Đúng lý ra những người đàn bà trưởng làng phải ra tiếp tôi.  Họ có ra, nhưng thổ âm trọ trẹ, dù chỉ cách Tùng Khẩu có vài dặm, cho thấy cái quê mùa của người dân ở đây.  

Đến giờ đọc tam triêu thư, họ đưa tôi vào phòng chính.  Nhìn qua cũng giống nhà bố mẹ tôi.  Ớt khô treo lũng lẳng trên xà nhà.  Tường bằng gạch nhám nhúa, không sơn phết.  Lần này không thấy chồng Tuyết Hoa đâu, chỉ gặp bà mẹ chồng hắc ám.  Bà có cặp môi mỏng và hai con mắt chụm vào nhau.  Tướng của một người hẹp hòi và độc ác.   

Tuyết Hoa bước vào, ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh cuốn tam triêu thư; im lặng đợi chờ.  Trông nó vẫn thế.  Đám đàn bà Kim Điền xúm xít vây quanh cuốn sách, những ngón tay bẩn thỉu sờ soạng trang sách.  Họ xì xầm phê bình mũi kim và trang giấy, nhưng không ai đá động đến nét chữ hay ý tưởng viết xuống.  Vài phút sau họ ngồi vào chỗ chung quanh phòng.

Mẹ chồng Tuyết Hoa đi ra băng ghế dài.  Chân bà không đến nỗi tệ như chân mẹ tôi, nhưng dáng đi kỳ quặc biểu lộ giai cấp còn rõ hơn thanh âm phát ra từ trong cổ họng.  Bà ngồi xuống, liếc nhìn con dâu mới với vẻ không ưa, rồi chiếu cặp mắt vô cảm về phía tôi.  “ Tôi nghe nói bà về làm dâu nhà họ Lỗ.  May lắm đó.” Lời nói tuy lễ phép, nhưng lối nói như thể tôi đã lăn lộn trong đống rác thối tha móc ra.  “ Người ta nói bà và con dâu tôi giỏi nữ thư.  Phụ nữ làng tôi không mấy trọng cái trò ấy.  Đọc thì cũng được, nhưng nghe thì  hay hơn.”

Tôi không tin.  Người đàn bà này cũng mù chữ như mẹ tôi.  Tôi đảo mắt liếc quanh, đánh giá đám đàn bà.  Họ không đá động đến chữ viết vì không hiểu gì cả.

“ Chúng tôi chả có lý do gì để dấu diếm ý nghĩ trong những giòng chữ ngoằn ngoèo,” mẹ chồng Tuyết Hoa nói tiếp.  “ Tôi nghĩ gì thì mọi người trong phòng này, ai chả biết.”  Khi những tiếng cười ngượng ngập nổi lên thì bà đưa ba ngón tay ra dấu cho họ im lặng.  “ Để nghe bà đọc tam triên thư cho nó vui.  Chúng tôi rất hân hạnh được nghe một nàng con nhà đại danh gia nói lên giá trị của con dâu tôi.”

Câu nào mụ nói cũng là một lời chế nhạo.  Tôi phản ứng như một đứa con gái mười bảy tuổi.  Tôi cầm cuốn tam triên thư của mẹ Tuyết Hoa lên và cố đọc bằng giọng thanh lịch của bà.

“ Mẹ xin gửi bức thư này đến gia đình nhà chồng con trong ngày thứ ba sau đám cưới, mẹ là mẹ con, và mẹ con mình đã xa nhau được ba ngày.  Tai biến đã xảy ra cho gia đình mình, và giờ đây con phải đi làm dâu xứ lạ.” Theo đúng như thông lệ, giờ đây mẹ Tuyết Hoa quay sang nói chuyện với gia đình mới.  “ Tôi mong quí vị tha thứ cho của hồi môn không ra gì của cháu.”  Lá thư tiếp tục đại loại như vậy, nói về những bất hạnh xảy ra cho gia đình Tuyết Hoa, sự sa sút và nghèo túng, nhưng tôi nhìn lướt qua hàng chữ mà không đọc.  Thay vào đó, tôi ứng khẩu.  
“ Một đứa con gái ngoan ngoãn như Tuyết Hoa đáng lẽ phải được vào một gia đình đàng hoàng.”

Tôi đặt cuốn sách xuống.  Căn phòng ắng yên như tờ.  Tôi cầm cuốn sách của tôi viết cho Tuyết Hoa và mở ra.  Tôi nhìn thẳng mắt bà mẹ chồng vì muốn bà biết là tôi sẽ luôn luôn bảo vệ người tỉ muội kết bái của tôi.  

“ Người ta có thể xem chị em mình như gái có chồng,” tôi hò về hướng Tuyết Hoa, “ nhưng trong tim thì không bao giờ chia cách.  Bạn đi xuống; tôi đi lên.  Gia đình bạn mổ bò.  Gia đình tôi giàu sang nhất huyện. Bạn gần tôi như trái tim.  Tương lai chúng ta nối liền với nhau.  Chúng ta như chiếc cầu trên giòng sông rộng.  Ta sẽ sánh vai cùng đi.”
Tôi muốn mẹ chồng Tuyết Hoa nghe hết nhưng bà nhìn tôi nghi ngờ, đôi môi mím lại vì bất mãn.
Khi đến đoạn gần chót, tôi lại thêm thắt vài tình cảm mới.  “ Đừng lộ nét đau khổ cho người thấy.  Đừng để những giọt nước mắt ứa lên.  Đừng để phường thô lỗ có cớ hạ nhục gia đình bạn.  Mình sẽ là lão đồng mãi mãi.”

Hai đứa tôi không có dịp nói chuyện với nhau.  Họ đưa tôi ra kiệu đi về nhà Ba Má.  Khi không có ai, tôi mở quạt ra đọc.  Một phần ba nép quạt đã viết đầy, ghi lại những kỷ niệm đặc biệt.  Cũng phải thôi vì chúng tôi đã sống một phần ba của một cuộc đời xem là khá dài cho phụ nữ vùng tôi.  Tôi nhìn lại cuộc đời.  Thật nhiều hạnh phúc.  Thật nhiều âu sầu.  Thật nhiều gần gũi.

Tôi đọc đến phần đăng lục cuối cùng nơi Tuyết Hoa ghi lại cuộc hôn nhân của tôi vào gia đình nhà họ Lỗ.  Tôi mài mực, lấy bút tốt nhất, đề ngay dưới lời chúc tụng của nó : “ Một con phượng hoàng bay cao trên bầy gà tầm thường.  Gió thổi chung quanh.  Chẳng có gì có thể cột nó xuống đất được. “  Chỉ có điều tôi đang ngồi đây trong cô độc và khi viết xong thì thấu hiểu số phận của Tuyết Hoa.  Trên góc quạt, tôi vẽ một đóa hoa úa tàn có một giọt nước mắt chảy xuống.  Tôi đợi cho mực khô.

Rồi tôi khép quạt lại.































12- Đền Khưu Phổ


Khi tôi về bố mẹ tôi mừng rỡ.  Phần vì quà bánh nhà chồng gửi tặng.  Nhưng tôi thì chẳng mừng.  Mười năm bị lừa dối, và lòng tôi bỗng dưng lạnh tanh.  Tôi không còn là đứa con gái để nước sông có thể rửa sạch hết đau buồn.  
Tôi muốn nói toạc móng heo ra nhưng như thế sẽ không phải đạo làm con.  Tôi chỉ còn biết phản kháng bằng cách thu mình vào nội tâm, tự cô lập tình cảm cũng như thể chất.

Lúc đầu gia đình tôi không để ý thấy sự thay đổi.  Họ vẫn đối xử như thường, nhưng tôi tránh né những dò xét thăm hỏi của họ.  Mẹ tôi muốn khám chỗ kín nhưng tôi từ chối, nói xấu hổ.  Khi thím tôi hỏi chuyện phòng the thì tôi làm bộ bẽn lẽn quay đi.  Khi cha tôi nắm tay thì tôi nói có chồng rồi, không được làm vậy.  Anh Cả muốn nói chuyện vui đùa thì tôi nói về mà nói chuyện với vợ.  Thằng em trai thấy mặt tôi không dám bén mảng lại gần.  Chỉ có chú--trông lạc lõng và băn khoăn--là tôi còn tội nghiệp, nhưng cũng không tâm sự gì cả.  Tôi vẫn làm việc dưới nhà, trên gác.  Tôi vẫn lễ phép, không hề đôi co.

Nhưng chẳng bao lâu thì mẹ tôi cũng nhận ra.  Đối với mẹ tôi, thái độ tuy lễ phép nhưng vẫn không thể chấp nhận được.  Má Má nói thím xuống nhà pha trà.  Khi thím vừa đi thì mẹ tôi chống gậy đi tới, gác gậy cạnh bàn nơi tôi đang ngồi, rồi nắm cánh tay tôi, những tay móng bấu sâu vào thịt.  

Bà rít qua kẽ răng.  “ Bộ cô tưởng lấy chồng con ông tiên chỉ thì có quyền lên mặt với cả nhà hả?”

Tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ   Trước giờ tôi chưa bao giờ dám tỏ thái độ bất kính nhưng lần này tôi để nét phẫn nộ lộ ra mặt.  Bà trừng mắt tưởng là có thể uy hiếp được, nhưng tôi không thèm quay đi.  Bà giang cánh tay tát mạnh ngang mặt.  Đầu tôi bật sang một bên rồi trở lại vị trí cũ.  Tôi vẫn nhìn thẳng vào mắt bà, không chớp mắt.  

“ Thái độ của cô đã làm nhục gia đình này,” bà nói.  “ Không ra cái thể thống gì hết.”

“ Không ra cái thể thống gì hết,” tôi lập lại, biết rằng càng tỏ vẻ dửng dưng thì bà càng điên tiết.  Tôi kéo ghì cánh tay bà xuống để hai mặt gần chạm.  Cái gậy rớt xuống sàn nhà.
Thím tôi gọi vọng lên từ dưới nhà.  “ Chị có sao không?”

Má Má trả lời.  “ Không sao.  Pha trà xong rồi mang lên.”

Người tôi run lên vì xúc động.  Tôi bấu móng tay vào bắp thịt mẹ và nói nhỏ để không ai nghe.
“ Mẹ chỉ có nói dối.  Mọi người trong gia đình này đã lừa dối tôi.  Bộ mấy người nghĩ tôi không tìm ra về Tuyết Hoa sao?”

“ Không nói vì tôi tội nghiệp cho nó,” bà nói.  “ Tôi cũng thương nó chứ. Về đây thì nó sướng có sao.  Tại sao lại phải nói cho cô nghe làm cái gì?”
“ Tại vì nó là lão đồng của tôi.”
Mẹ tôi nghinh mặt lên và thay đổi chiến thuật.  “ Tất cả cái gì tôi làm là đều cho cô hết.”
Tôi bấu mạnh hơn.  “ Cho mẹ thì có.”
Tôi biết bả đau nhưng vẫn không nhăn mặt mà lại đổi sang vẻ van nài.  Biết là thế nào bả cũng cố bào chữa, nhưng đào đâu ra được lý do.  


“ Bó chân và liên hệ lão đồng với Tuyết Hoa không chỉ giúp cô có tấm chồng đàng hoàng mà còn giúp cho cả Diễm Nguyệt nữa.”
“ Diễm Nguyệt chết hai năm rồi.”  Giọng tôi khàn đục.  “ Tuyết Hoa đến nhà này cách đây mười năm.  Mười năm.  Vậy mà không nỡ nói một tiếng nào.”
“ Diếm Nguyệt---”
“ Chuyện này không liên hệ tới Diễm Nguyệt.”
“ Nếu mày không mang nó ra ngồi bên ngoài thì nó đâu đã chết.  Tại mày mà thím mày khổ.”

Đáng lý ra tôi chẳng nên ngạc nhiên với những mánh lới của bà mẹ tuổi khỉ của tôi.  Nhưng  lời buộc tội quá gắt gao và tàn nhẫn không tưởng tượng được.   Nhưng biết sao bây giờ? Tôi phải ở nhà tới ngày có thai.  Con ngựa sao có thể địch lại con khỉ láu cá.  

Mẹ tôi thừa thắng xông lên luôn.  “ Con người ta thì đã biết ơn--”
“ Biết ơn cái gì?”
“ Nhờ tôi bó chân nên cô mới có được ngày nay.” Bà nói.  

Lời của mẹ làm tôi nhớ lại những ngày tháng đau đớn khủng khiếp khi bà cũng nói những lời như hôm nay.  Tôi chợt nhận ra là hồi đó bà không tỏ ra chút gì gọi là tình mẹ.  Những cái bà làm chỉ để lợi lộc cho chính mình.
“ Tôi sẽ không bao giờ cần tình thương của mẹ,” tôi nói, buông tay bà ra.  “ Rồi có một ngày tôi sẽ nắm quyền cai quản gia đình này.    Lúc ấy tôi vẫn sẽ đối xử tốt và tha thứ, nhưng đừng bao giờ nghĩ là tôi sẽ quên chuyện này.”

Mẹ tôi cúi xuống nhặt gậy chống lên.  “ Tao chỉ tội nghiệp cho gia đình họ Lỗ.  Ngày mày ra khỏi nhà này, tao sẽ ăn mừng.  Còn bây giờ thì đừng có giở cái trò đó ra nữa.”
“ Nếu không thì sao? Cho nhịn đói hả?”
Má Má nhìn tôi như nhìn người dưng.  Rồi bà khập khiễng về ghế ngồi.  Khi thím mang trà lên thì đã như không có chuyện gì xảy ra hết.

Và rồi mọi chuyện vẫn vậy.  Tôi làm hòa lại với những người khác.  Tôi muốn đoạn tuyệt hoàn toàn với mẹ, nhưng hoàn cảnh không cho phép.  Tôi phải ở nhà cho đến ngày có thai sắp sanh.  Và có về nhà chồng thì vẫn phải về thăm nhà mỗi năm nhiều lần.  Và tôi thương Tuyết Hoa hơn bao giờ hết.  Hai đứa viết cho nhau, bà Vương là người đưa thư.  Tôi lo không biết mẹ chồng có đối xử tử tế không, nó có chịu nổi chuyện gối chăn không, và gia đình bố mẹ ra làm sao.  Nó lại nghĩ tôi không thương nó như xưa.  Muốn gặp nhau nhưng không có lý do, và dịp duy nhất khi về nhà chồng để làm chuyện ấy.



Mỗi năm gặp chồng bốn năm lần.  Lần nào đi nhà cũng khóc.  Phải mang cơm nước theo, vì khi nào về ở luôn thì nhà chồng mới nuôi ăn.  Lần nào đến Tùng khẩu cũng phấn khởi với phong cách đối đãi.  Lần nào về nhà cũng buồn vui lẫn lộn, vì đi thì nhớ, và biết là rồi sẽ đi luôn.

Càng đi tôi càng bạo, ngồi trong kiệu nhìn ra để biết đường biết xá.  Những con đường lún bùn, hai bên là ruộng lúa, ruộng khoai.  Một cây tùng trồng ven biên Tùng Khẩu uốn mình cúi chào.  Xa xa phía bên trái là ao cá của làng.  Sau lưng, giòng Tiêu Giang chảy lờ lững.  Trước mặt, Làng Tùng Khẩu nằm thu mình trong vòng tay của những ngọn đồi.  

Khi phu hạ kiệu xuống trước cửa chính Tùng Khẩu, tôi đặt chân xuống con đường lát sỏi theo hình vây cá,  Khu này hình móng ngựa, nhà xay lúa bên phải; chuồng ngựa bên trái.  Cây cột cổng chạm trổ chống một mái ngói uy nghi, mép uốn lên trời.  Tường vẽ sinh cảnh của những vị thần tiên.  Ngạch cửa cổng trước đặt cao cho du khách biết là Tùng Khẩu có địa vị nhất vùng.  Một cặp cá bay bằng đá mã não gác hai bên cổng cho khách cưỡi ngựa đi xuống.  

Vừa vào là thấy ngay sân chính của làng, một cái sân không chỉ chào đón và rộng lớn mà còn
được che bởi một cái chỏm hình bát giác rất là hợp phong thủy.  Nếu đi qua cổng phụ bên phải, sẽ đến sảnh chính của Tùng Khẩu dùng để tiếp khách và hội họp.  Tới nữa sẽ đến đền tổ, nơi tiếp đón sứ giả và quan chức và dùng cho những dịp lễ như đám cưới.  Xóm nghèo của làng san sát những căn nhà bằng gỗ, nằm chùm húm sau đền.  

Nhà bố mẹ chồng tôi nằm nổi bật bên kia cổng phụ trái.  Khu này nhà nào cũng sang trọng, nhưng nhà bố mẹ chồng tôi đẹp nhất.  Cho đến ngày nay, tôi vẫn sống thoải mái trong căn nhà này.  Căn nhà có hai tầng, xây bằng gạch, tường ngoài trét hồ.  Ngay dưới mép ngói là những bức vẽ sơn hình trai gái, đứa ngồi học, đứa chơi đàn, đứa viết hí hoáy.  Tường trong lát bằng gỗ tốt nhất trong vùng, và mỗi phòng có cột chạm và lan can.

Hồi đó phòng khách cũng y như bây giờ-- sàn làm bằng gỗ, đồ đạc thì thanh nhã, căn phòng lại thoáng mát vì có gió nhẹ lùa vào qua những cửa sổ trên cao.  Những bậc thang bên tường đông dẫn đến một cái ban công bằng gỗ tô điểm hình thoi chồng.  Hồi đó bố mẹ chồng tôi ngủ trong phòng lớn nhất phía sau nhà dưới.  Mỗi ông em rể một phòng chung quanh.  Vợ mới cưới được ở chung phòng, nhưng nếu mãi mà vẫn chưa đẻ con trai thì sẽ phải dọn sang khu khác, nhường chỗ cho thiếp hay con-dâu-nhỏ đến ngủ.   

Trong những chuyến thăm chồng thì ban đêm dành cho chuyện gối chăn.  Cần phải có con trai nên hai vợ chồng tôi cố gắng tối đa.  Còn những lúc khác thì ít khi nào thấy mặt nhau--chàng đi với bố, còn tôi ở với mẹ--nhưng dần dà chúng tôi biết nhau hơn, và chuyện phòng the nhờ đó cũng thoải mái hơn.

Như những cuộc hôn nhân khác,  Người cần làm thân nhất là mẹ chồng.  Tuyết Hoa nói đúng, mẹ chồng tôi là người trọng lễ nghi.  Bà ngồi nhìn tôi làm những công việc thường làm ở nhà-- pha trà làm điểm tâm, giặt giũ, nấu bữa trưa, thêu thùa khâu vá, chiều đến thì dệt vải, và cuối cùng, sửa soạn bữa ăn tối.  Mẹ chồng tôi sang miệng sai lắm.  “ Cắt bí nhỏ hơn,”  Hay “ Miếng cô cắt chỉ có cho lợn ăn.” Hay “ Tháng này kinh của tôi dính vào khăn giường.  Phải chà sạch cho ra.”  Thức ăn mang từ nhà đến thì bà nhỉnh mũi nói, “ Lần sau mang cái gì đừng có mùi hôi.  Mùi thức ăn của cô làm vợ chồng con cái tôi hết muốn ăn luôn.”  Ở vài ngày là tống cổ về nhà, không một lời từ giã, không một lời cám ơn.  
Nói tóm lại là như vậy-- không quá sung sướng mà cũng không đến nỗi tệ.  Thường thường thôi.  Lỗ phu nhân công bằng; tôi thì vâng lời và sẵn sàng học hỏi.  Nói cách khác, cả hai đều hiểu vai trò và trách nhiệm của mình và cố chu toàn bổn phận của mình.  Ngày mồng hai Tết sau đám cưới, mẹ chồng tôi mời tất cả con gái Tùng Khẩu chưa chồng và những cô mới về làm dâu như tôi đến chơi.  Bà cho dọn trà bánh ra đãi.  Bà tỏ ra lịch sự và nhã nhặn.  Khi mọi người ra về, chúng tôi đi theo.  Hôm đó chúng tôi thăm năm nhà và tôi gặp năm cô con dâu mới.  Nếu tôi không phải là lão đồng của Tuyết Hoa thì đã kiếm trong đám ấy người nào về lập hội tỉ muội có chồng.

Lần đầu Tuyết Hoa và tôi gặp lại là chuyến viếng đền Khưu Phổ hàng năm.  Tưởng là nhiều chuyện để hàn huyên lắm, nhưng cả hai đều ít nói.  Tôi biết nó hối hận đã dối tôi bao năm nay chuyện lấy chồng không ra gì.  Nhưng tôi cũng cảm thấy không thoải mái.  Không dám nói việc mình giận mẹ vì sợ nhắc nhở sự lừa dối của chính nó.  Còn chuyện phòng the nói ra thì mắc cở.  Chẳng lẽ kể chuyện bố chồng tôi ép tai vào cửa phòng để nghe hay mẹ chồng tôi khám khăn giường mỗi sáng hay sao?  Đề tài an toàn nhất là chuyện làm thế nào có bầu.

Chúng tôi nói về những yếu tố phải có để đậu thai và chuyện chồng mình có tuân theo những thủ tục đó không.  Ai chả biết con người là một tiểu vũ trụ--tai mắt là mặt trời mặt trăng, hơi thở là không khí, máu là mưa.  Ngược lại, những yếu tố đó cũng đóng vai trò quan trọng trong chuyện sinh con.  Do đó, không được gối chăn khi mưa rơi sối xả trên mái, vì đứa con sẽ cảm thấy mắc kẹt và tù túng.  Sấm chớp cũng không được vì nó sẽ sợ hãi.  Và khi vợ chồng căng thẳng càng không được, vì những khí xấ́u đó sẽ truyền sang thế hệ kế tiếp.

“ Tôi nghe nói đừng mây mưa sau khi làm việc nặng,” Tuyết Hoa nói tôi.  “ Nhưng hình như mẹ chồng tôi chưa nghe nói điều này.”  Trông nó mệt mỏi.  Mỗi lần từ nhà chồng về, tôi cũng vậy-- vì làm việc không ngừng nghỉ, vì lúc nào cũng phải lễ phép, và vì lúc nào cúng bị để ý.  

“ Mẹ chồng tôi cũng không tôn trọng lệ này,” tôi cũng đồng ý.  “ Bộ họ không biết người ta có câu,  giếng múc quá thì cũng cạn hay sao?”

“ Lý tưởng nhất là một đêm trăng tròn và sáng.  Tròn như bụng bà bầu, và trong sáng như sự tinh tuyền của người mẹ.”  Tôi nói.

“ Và khi bầu trời trong sáng,” Tuyết Hoa phụ họa, “ Có nghĩa là vạn vật yên ổn và sẵn sàng.”
“ Và khi vợ chồng đều hạnh phúc, khi ấy tên mới bắn trúng đích.  Thím tôi nói những đêm như vậy, độc trùng cũng ra bò ra giao phối.”

Thấm thoát mà đã ba năm trôi qua, tôi vẫn cố chiều mẹ chống mỗi lần đến thăm nhưng tôi có cảm tưởng người ta nhìn bằng ánh mắt khiển trách vì mãi mà chưa có con.  Rồi một hôm bà Vương đưa tôi một lá thư của Tuyết Hoa.  Tôi đợi bà đi rồi mới mở ra đọc.
“ Tôi đã có thai.  Ngày nào cũng buồn nôn.  Mẹ tôi nói như vậy có nghĩa là đứa con đang sung sướng.  Tôi hy vọng con trai.  Mong bạn cũng được như vậy.”
Không ngờTuyết Hoa lại có trước.  Tôi cao sang quyền quý hơn thì phải có thai trước chứ.  Tôi xấu hổ đến độ không nói cho Má Má và thím nghe.  Tôi thừa biết phản ứng của họ.  Má Má sẽ khiển trách tôi, còn thím sẽ mừng giùm Tuyết Hoa.

Lần sau tôi đến thăm chồng, trong lúc mây mưa, tôi lấy chân kẹp chặt chàng lại và ôm chàng nằm cứng ngắc trên người tôi cho đến khi xong.  Tôi ôm chặt đến độ chàng nằm trên người tôi ngủ luôn.  Tôi nằm thao thức một hồi lâu, trong đầu cố nghĩ đến trăng tròn ngoài song cửa.  Đến sáng thì chàng lăn sang một bên, nằm ngủ nghiêng.  Tôi thọc tay dưới chăn và nắm dương vật chàng cho đến khi nó cương cứng.  Khi chàng mở mắt thì tôi rụt tay lại và nhắm mắt.  Tôi để mặc chàng muốn làm tình làm tội gì thì làm.  Khi chàng ra khỏi giường mặc quần áo đi làm thì tôi vẫn nằm im.  Có tiếng mẹ chồng lách cách trong bếp, làm những công việc lý ra tôi phải làm rồi.  Chồng tôi nhìn tôi và tôi hiểu: Nếu không dậy ngay thì sẽ có chuyện.  Chàng không la lối hay đánh đập như những ông chồng khác, nhưng sẽ bỏ đi mà không nói tiếng nào.  Mãi sau tôi mới dậy, mặc quần áo, đi vào bếp.  Mẹ chồng tôi mỉm cười sung sướng, còn con Dũng Cang và những đứa ở khác nhìn nhau nháy nhó.

Hai tuần sau, trong khi đang nằm trên giường ở nhà, tôi thức dậy cảm thấy như một lũ linh hồ đang lay động căn nhà.  Tôi bò vội ra bô ói mửa.  Thím vào phòng lấy tay lau khô mặt tôi.  “ Giờ thì con sẽ thực sự xa nhà rồi,” thím nói và lâu lắm rồi mới thấy cái miệng toang hoác của thím cười toe toét.  

Chiều hôm đó tôi lấy bút mực viết thư cho Tuyết Hoa.  “ Khi mình gặp nhau ở Đền Khưu Phổ năm nay,” tôi viết.  “ Hai ta sẽ tròn như mặt trăng.”

Mẹ tôi nghiêm nhặt với tôi trong những tháng đó còn hơn lúc bó chân.  “ Không được leo đồi.”
“ Không qua cầu hẹp, không đứng một chân, không nhìn nhật thực, không tắm nước nóng.”  Mấy chuyện đó thì không nói cũng chẳng làm, nhưng kiêng cữ ăn uống lại là một chuyện khác.  Miền tôi hãnh diện về thức ăn cay, nhưng tôi không được phép ăn bất cứ thức gì có tiêu ớt tỏi, sợ bị sót nhau.  Không được ăn trừu sợ con yếu đuối, cá có vảy thì sẽ đẻ khó.  Không được ăn mặn, ăn đắng, ngọt quá, chua quá, hay khắm quá.  Thế là không được ăn tương đậu, mướp đắng, canh chua, hay bất cứ món nào có gia vị.  Chỉ được ăn canh nhạt, cơm với rau xào, và nước trà.  Tôi chấp nhận hết, vì biết gia trị của mình tùy thuộc hoàn toàn vào đứa bé trong bụng.

Nhà chồng dĩ nhiên vui mừng.  Họ đã chuẩn bị sẵn sàng.  Tháng bảy âm lịch sẽ sanh.  Tôi sẽ phải đến Đền Khưu Phổ để cầu có con trai trước rồi mới về Tùng Khẩu.  Bố mẹ chồng chấp nhận việc viếng Đền- họ sẵn sàng làm bất cứ cái gì để có cháu trai-- với điều kiện tôi phải ngủ lại tại lữ quán để khỏi mệt.  Nhà chồng cho kiệu đến rước.  Tôi đứng trước ngạch cửa nhà cho mọi người đến ôm và chúc tụng; rồi tôi lên kiệu đi khỏi, nhưng trong lòng biết rằng sẽ trở lại trong những dịp lễ lạc.  Đây không phải là giã biệt, chỉ là tạm biệt, như chị Lớn của tôi.

Đến lúc này thì Tuyết Hoa, vì có bầu trước tôi, nên đã về ở tại Kim Điền, và tôi đến đón nó.  Bụng nó to vượt mặt mà nhà chồng cũng cho đi.  Chúng tôi ôm nhau không được vì hai cái bụng bầu chắn giữa, và lăn ra cười trong suốt đoạn đường.  Tôi chưa bao giờ thấy nó đẹp như vậy.  
Tuyết Hoa nói huyên thiên trên suốt chuyến đi, nào là người cảm thấy thế nào, nào là mọi người đối xử tốt từ khi dọn vào nhà chồng.  Nó nắm chặt miếng bạch ngọc treo trên cổ để mong cho đứa con da trắng như ngọc thay vì ngăm ngăm đen như da chồng. Tôi cũng đeo bạch ngọc, nhưng khác với Tuyết Hoa, để da nó không đen giống da tôi.

Những năm trước chúng tôi chỉ viếng Đền cho có lệ.  Lần này chúng tôi hãnh diện đi vào, ưỡn hai cái bụng tròn dình ra phía trước, liếc nhìn những bà bầu khác xem ai bụng to hơn, ai bụng cao, ai bụng thấp, đồng thời cũng phải tự nhủ thầm phải có ý nghĩ thanh cao để có thể truyền lại cho con.

Chúng tôi lên tới tế đàn, nơi có hàng trăm đôi hài trẻ sơ sinh được sắp ngay ngắn.  Hai đứa tôi đã làm thơ viết trên quạt để dâng lên nữ thần.  Tôi xin nữ thần ban phước có con trai để nó nối dõi tông đường và thờ kính tổ tiên.  Tôi kết luận:  Lạy Nữ Thần, bao nhiêu người đã tìm về đây xin có con trai, những mong người nghe lời con cầu khẩn.  Xin cho con được như vậy.   Lúc viết thì nghe cũng hay nhưng sao giờ này lại lo không biết Tuyết Hoa viết gì.  Chắc chắn lời thơ phải hoa mỹ và đáng ghi nhớ hơn.  Tôi thầm xin Nữ Thần đừng thiên vị với Tuyết Hoa quá.  
“ Làm ơn nghe lời con xin, làm ơn, làm ơn. Nghe lời con xin,” tôi thầm thì trong miệng.

Hai đứa tôi, tay phải đặt quạt lên tế đài, còn tay trái thì mỗi đứa thó một đôi hài bé tí teo, dấu vào trong tay áo.  Chúng tôi đi ra vội kẻo không bị bắt.  Ở huyện Vĩnh Minh, bà nào muốn có con cũng lấy một đôi hài-- làm bộ như ăn cắp--một đôi hài dưới chân bàn thờ nữ thần.  Như bạn biết đấy, miền tôi chữ hài là giày mà cũng là hài nhi, đứa con.  Khi sanh con xong thì chúng tôi mang lại một đôi hài đem trả-- bởi vậy lúc nào cũng có đầy hài trong đền thờ-- rồi dâng lễ vật tạ ơn.

Chúng tôi bước ra ngoài và len lỏi tìm đến hàng bán chỉ.  Như đã làm cả mười hai năm nay, chúng tôi tìm màu thích hợp với kiểu mẫu sẵn có trong đầu.  Tuyết Hoa đưa ra một lô màu xanh để chọn.  Những màu xanh sáng như mùa xuân, khô như cỏ cháy, vàng như ngọn lá cuối hạ, linh động như rong rêu sau cơn mưa, và lờ mờ như thời khắc trước khi màu vàng đỏ của mùa thu sắp bắt đầu.  

“ Ngày mai,” Tuyết Hoa nói.  “ trên đường về hãy ngừng nơi bờ sông.  Hãy ngồi ngắm mây bay trên đầu, nghe tiếng nước róc rách qua khe đá, hãy cùng nhau thêu thùa và hát ca, để con trai mình sanh ra sẽ lịch sự tao nhã.”

Tôi hôn nhẹ lên má nó.  Khi xa nó thì có khi đầu óc tôi lang thang vào những chốn tối tăm, nhưng giờ thì tôi yêu nó như lúc nào cũng vậy.  Ôi sao mà nhớ con lão đồng thế không biết

Đi Đền là phải ghé hàng khoai.  Lão Tá toét cái miệng móm ra cười khi thấy hai cái bụng bự của chúng tôi.  Ông nấu món đặc biệt vì biết chúng tôi phải ăn kiêng.  Chúng tôi thưởng thức cho đến khi hết sạch sành sanh.  Rồi ông mang ra món khoái khẩu nhất, món khoai rán bọc đường.  Hai đứa tôi như hai đứa con gái lí lắc, thay vì là hai người đàn bà sắp có con.

Tối hôm đó trong lữ quán sau khi thay áo ngủ, Tuyết Hoa và tôi nằm đối diện.  Đây sẽ là đêm cuối cùng với nhau trước khi làm mẹ.  Tuyết Hoa đặt tay lên bụng tôi, tôi lên bụng nó.  Tôi đã quen với cảm giác con nó đá vào ban đêm.  Giờ tôi cảm thấy con của Tuyết Hoa động đậy trong bụng.  Trong lúc ấy hai đứa tôi gần gũi như hai người đàn bà.

“ Tôi sung sướng vì mình có nhau,” nó nói, rồi lấy ngón tay xoa xoa nơi mà thai nhi đẩy cùi chỏ hay đầu gối ra.
“ Tôi cũng thấy sung sướng.”
“ Tôi rờ thấy con trai bạn.  Nó sẽ khoẻ mạnh như mẹ nó.”

Lời nói của nó làm tôi hãnh diện và tràn trề sức sống.  Ngón tay nó ngừng lại, và nó lấy hai bàn tay ấm áp ôm bụng tôi.
“ Tôi sẽ yêu nó như tôi yêu bạn,” nó nói.  Rồi như nó đã từng làm khi còn bé, nó đưa một tay lên má tôi và để đó cho đến khi cả hai ngủ say.  Hai tuần nữa tôi được hai mươi tuổi, con tôi sẽ ra đời, và đời sống thực sự sắ́p bắt đầu.


















13- Con Trai

“ Bách Hợp,

Tôi đã là mẹ.
Con tôi sinh hôm qua.
Một thằng cu tóc đen.
Người nó dài ngoằng.
Tôi vẫn phải kiêng cữ.
Vợ chồng tôi không được gần nhau một trăm ngày.
Ngồi trên gác mà đầu nghĩ đến bạn.
Rất mong tin con bạn.
Mong sao mẹ tròn con vuông.
Tôi cầu xin Nữ Thần gìn giữ bạn.
Mời bạn đến mừng ngày đầu tháng con tôi.

Tuyết Hoa”

Tôi mừng là Tuyết Hoa mẹ tròn con vuông.  Mạng sống con người ở vùng tôi rất mong manh.  Muốn có năm đứa con lớn khôn nên người thì phải có bầu năm một.  Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh rất cao do xẩy thai, chết khi đẻ ra, hay bệnh tật.  Mạng sống con gái còn tệ hơn vì bị bỏ bê và thiếu dinh dưỡng.  Do đó, trong những năm tháng đầu đời không có gì là chắc chắn.  

Tôi cũng lo cho đứa con đang mang trong bụng.  Ở nhà thì mẹ chỉ lo bắt ne bắt nét, chẳng có khuyên bảo thực tế gì hết.  Thím đã xảy thai nhiều lần nên tránh tôi như tránh tà.  Bây giờ ở nhà chồng thì không có ai.  Mẹ chồng và chồng tôi dĩ nhiên quan tâm về đứa bé nhưng không lo chuyện tôi có thể chết khi sanh ra con giòng cháu giống của họ.

Lá thư Tuyết Hoa đến như một điềm lành.  Nếu nó sanh dễ thì mẹ con tôi chắc cũng trót lọt.  Miền tôi gọi giai đoạn làm vợ và làm mẹ là tháng-ngày-gạo-muối.  Tình bạn không những không giảm mà còn bền chặt hơn trong giai đoạn mới của cuộc đời này, nhưng chúng tôi là gái có chồng nên vẫn phải theo đúng quy tắc lễ nghi.  Thư viết phải rào trước đón sau, chữ dùng phải thận trọng vì không biết ai đọc.  Không được than thở vì nếu lọt ra ngoài sẽ mang nhục cho gia đình cũng như gia đình nhà chồng.  

Bác chồng tôi thi đỗ tiến sĩ, làm quan trong triều.  Người ta có câu ` Một người làm quan, cả họ được nhờ.”  Bác chồng tôi sống trong kinh đô, để của cải ruộng đất cho bố chồng tôi cai quản.  Bố chồng tôi tờ mờ sáng đã thức dậy ra đồng, nói chuyện mùa màng với tá điền, và giám sát công trình thủy lợi.  Bố chồng tôi có hai người em sống ở gần đó.  Mỗi người một dinh cơ, dĩ nhiên không đồ sộ như nhà tôi.  Họ cũng thường hay mang gia đình ghé chơi ăn tối, còn vợ họ ngày nào cũng đến ngồi lê đôi mách với đám đàn bà trên lầu.  Đúng là cả họ được nhờ.  

Tuy Bác Lỗ là chủ gia đình nhưng sau khi sanh con trai, tôi đã mặc nhiên củng cố được vị trí con dâu cả mà lại có con trai làm cháu đích tôn để nốt dõi tông đường.  Khi bà đỡ đưa thằng con cho tôi bế, tất cả đau đớn, mệt mỏi bỗng dưng biến mất.   Cả nhà sung sướng.  Mỗi người biểu lộ một cách. Chồng tôi ngồi xuống nói chuyện.  Mẹ chồng tôi nấu súp có bỏ gừng, rượu, và lạc để giúp có sữa và co dạ con. Bố chồng sai thiếp mang xuống cho tôi tấm vải lụa xanh để may áo cánh cho thằng bé.   

Sau này tôi hay căn dặn các nàng vợ trẻ về làm dâu nhà họ Lỗ, và những cô đến học nữ thư với tôi, ráng có thằng con trai trước rồi tính gì thì tính.  Con trai đem lại căn cước cũng như phẩm giá, che chở, và giá trị kinh tế.  Con trai là gạch nối giữa chồng và tổ tiên.  Đây là cái duy nhất mà đàn ông phải cần đến đàn bà.  Bảo tồn nòi giống là đạo hiếu của người con.

“ Tuyết Hoa,

Con trai nằm cạnh tôi.
Tôi vẫn còn phải kiêng cữ sau khi sinh nở.
Chồng đến thăm mỗi sáng.
Mặt mũi chàng hớn hở.
Thằng con tròn xoe đôi mắt như thắc mắc.
Tôi mong chóng đến ngày đầy tháng con bạn.
Nhớ viết cho thằng con tôi một câu thật đẹp trên nép quạt.
Gia đình mới của bạn thế nào?
Tôi ít gặp chồng tôi.  Còn bạn thì sao?
Tôi thường hay tựa nơi song cửa nhìn về phía nhà bạn.
Tôi nghĩ đến bạn mỗi ngày.

Bách Hợp”


Tại sao gọi là thời gạo-muối?  Bởi đó là giai đoạn phải làm công việc nội trợ như thêu thùa, dệt vải, may vá, nấu ăn, rửa bát, rồi đến tối lại phải sẵn sàng chăn gối với người mà mình vẫn chưa quen thuộc.  Đó cũng là những tháng ngày lo lắng vất vả của người mẹ trẻ mới có con lần đầu.  Tại sao nó khóc? Sữa có đủ cho con không? Chừng nào nó mới ngủ? Sao nó ngủ nhiều vậy? Rồi nào là sốt, ngứa, bọ cắn, trời nóng, trời lạnh, đau bụng, chưa kể những dịch bệnh nổ bùng hàng năm, cướp mạng trẻ con mà không một ông lang hay cúng tế hay nước mắt người mẹ có thể cứu chữa được.  Vậy mà khi con mới được mấy tuần tôi còn có một mối quan tâm khác, một mối quan tâm không dính dáng gì tới nghĩa vụ làm dâu, làm vợ, làm mẹ.

Tôi xin phép mời Tuyết Hoa đến ăn đầy tháng con tôi nhưng mẹ chồng tôi không chấp thuận.  Một ngày vui quan trọng nhất mà không có Tuyết Hoa bên cạnh.  Cả nhà tụ tập ở từ đường để khắc tên cúng cơm thằng nhỏ vào bức tường gia tộc.  Họ hàng quan khách mỗi người được một quả trứng đỏ--trứng tượng trưng cho đời người, đỏ cho may mắn.  Sau đó một bữa đại tiệc được dọn ra với yến sào,nem công và chả phượng.  Tuy không được mời nhưng Tuyết Hoa vẫn gửi quà, một cái áo sơ sinh có mũ.

Mẹ chồng tôi liếc nhìn món quà rồi nói, “ Có con có cái rồi.  Phải chọn bạn mà chơi.  Gia đình tôi không có dây dưa với vợ đồ tể.  Mẹ nào con nấy.”

Nói như vậy có nghĩa là mẹ chồng tôi không chỉ không mời ăn đầu tháng không thôi, mà còn không muốn tôi liên lạc Tuyết Hoa luôn.  Tôi cảm thấy cõi lòng tan nát, và vì mới sanh nên khóc tối ngày.   Đây là một mệnh lệnh mà tôi không thể nào có thể vâng lời.  

Trong lúc đó chúng tôi vẫn viết cho nhau mỗi ngày.  Trước giờ tôi vẫn tưởng đàn ông không biết gì về nữ thư, nhưng từ ngày về nhà chồng, tôi thấy không phải vậy.  Rồi tôi chợt nhận thức là đàn ông cả vùng tôi cũng phải biết chớ.  Sao mà không biết? Họ đeo giày có thêu nữ thư.  Họ thấy chúng tôi dệt chữ vào vải.  Họ nghe chúng tôi hát hò và chuyền tay nhau những cuốn tam triên thư.  Họ chỉ không thèm để ý đến thôi.

Người ta nói đàn ông thì tâm trung hữu kim, còn đàn bà, tâm trung hữu thủy.  Chữ viết cũng vậy.  Chữ viết đàn ông có hơn năm chục vạn, mỗi chữ một khác, ý nghĩa và sắc thái thâm thúy.  
Chữ viết đàn bà có khoảng sáu trăm, rồi dùng ngữ âm như trẻ con để chế thêm một chục vạn chữ.  Chữ đàn ông học cả đời chưa thấu triệt.  Chữ đàn bà học khi còn con gái và ý nghĩa tùy theo hoàn cảnh.  Đàn ông viết về thế giới bên ngoài như văn chương, sổ sách, mùa màng; đàn bà viết về chuyện trong nhà như chuyện con cái, công việc nhà, và tình cảm.  Đàn ông gia đình họ Lỗ hãnh diện vì vợ giỏi nữ thư, khéo thêu thùa, nhưng xem mấy chuyện ấy quan trọng thua rắm chó.

Bởi thế nên đàn ông không để ý đến thư tôi viết hay nhận.  Mẹ chồng tôi lại là chuyện khác.  Tôi phải tránh né con mắt soi mói của bà.  Tuyết Hoa và tôi bắt đầu sử dụng một hình thức liên lạc khác.  Tôi sai con Dũng Cang làm chân chạy làng này sang làng kia để đưa thư, khăn thêu, và vải dệt.  Tôi đi thì cũng được vì khoảng cách không xa mấy và chân tôi đã khoẻ lại, nhưng đàn bà không được đi đường một mình nhỡ bị bắt cóc thì sao.

“ Bách Hợp,

Bạn hỏi thăm về gia đình mới của tôi.
Tôi may mắn lắm.
Ở nhà với bố mẹ chẳng có gì là sung sướng.
Hai mẹ con tôi phải yên lặng tối ngày.
Mấy bà thiếp cùng anh chị em và đầy tớ đã đi hết.
Nhà tôi vắng vẻ.
Ở đây tôi có chồng, bố mẹ chồng, và bầy em gái.
Nhà không có thê thiếp hay gia nhân.
Tôi phải làm hết.
Tôi cũng chẳng màng.
Tất cả gì cần, tôi đã học của bạn, chị bạn, mẹ bạn, và thím bạn.
Nhưng đàn bà ở đây không giống gia đình bạn.
Họ không thích vui đùa.
Họ không kể truyện.
Mẹ chồng tôi cầm tinh con chuột chù.
Con chuột nghĩ con ngựa ích kỹ và vô tâm, tôi đâu có vậy.
Con ngựa nghĩ con chuột thủ đoạn và đòi hỏi, thật là như vậy.
Nhưng bà ấy không đánh đập tôi.
Bà ấy cũng không mắng chửi quá mức của mẹ chồng.
Bạn có tin tức gì của bố mẹ tôi không?
Ngay sau khi tôi về nhà chồng,
Bố mẹ tôi bán nốt đồ đạc còn lại.
Họ lấy tiền rồi biến mất.
Đi ăn mày khỏi trả nợ.
Bây giờ họ ở đâu tôi không biết.
Tôi chỉ lo cho mẹ tôi, không biết còn sống hay đã chết.
Chắc không bao giờ biết.
Tại sao gia đình tôi thiếu may mắn vậy?
Chắc kiếp trước họ đã ăn ở không ra gì.
Còn tôi thì sao?
Còn bạn thì sao?
Bạn có sung sướng không?

Tuyết Hoa.”



Kể từ đó tôi hay lắng tai để ý nghe ngóng.  Có người nói thấy bố mẹ Tuyết Hoa ăn mặc bẩn thỉu đi xin ăn và ngủ bờ ngủ bụi.  Không còn nhà để về thì Tuyết Hoa không bằng kẻ mồ côi.  Bố mẹ chết thì còn cúng giỗ, bố mẹ đi ăn mày thì biết chết lúc nào?  Đâu có ma chay, Thanh Minh tảo mộ, hay cầu nguyện cho hương linh.

Tôi có hạnh phúc không?  Biết trả lời sao đây?  Tôi có nên viết về đám đàn bà sống trên gác? Gác nhà chồng tôi có quá nhiều đàn bà không thích nhau.  Tôi là dâu cả, nhưng về nhà chồng không lâu thì nàng dâu thứ hai cũng đến ở.  Nàng mới được mười tám và không ngừng khóc lóc nhớ nhà.  Nàng đẻ đứa con gái làm mẹ chồng tôi càng thêm khó chịu.  Tôi cố làm quen nhưng nàng rút vào một xó, tối ngày viết thư cho bố mẹ và tỉ muội kết nghĩa.  Tôi có nên kể Tuyết Hoa nghe là nàng dâu thứ hai này kiếm mọi cách để lạy lục, rỉ tai, và nịnh bợ mẹ chồng.   Trong khi đó ba vợ bé của bố chồng tôi thì cãi nhau xoành xoạch.  

Còn chồng tôi, có nên kể không?  Chẳng có gì để mà kể vì có mấy khi thấy mặt thấy mũi đâu.  Ban ngày thì chàng ra ngoài đồng giám sát và trông coi những dự án đất đai trong khi tôi lo thêu thùa, làm việc vặt trên gác.  Tôi dọn điểm tâm, bữa trưa, và bữa tối cho chàng ăn.  Những lúc ấy chàng không nói chuyện với tôi.  Thỉnh thoảng thì chàng vào phòng thăm con hay để làm chuyện ấy.  Chắc vợ chồng đâu thì cũng thế, nói làm cái gì.

“ Phải công nhận là Tuyết Hoa nó dậy cô nhiều cái hay,” mẹ chồng tôi nói một hôm khi thấy tôi đang viết thư cho lão đồng của tôi. “ Nhưng nó không còn thuộc về làng này nữa.  Ông nhà tôi không có quyền hạn cũng như trách nhiệm gì với nó.  Chắc cô cũng hiểu về lệ làng.  Con gái đi lấy chồng không ai đụng đến trong chiến tranh, vì được xem như thuộc về làng chồng cũng như làng mình.  Nhưng nếu cô sang làng Tuyết Hoa mà nhỡ có gì xảy ra, thì không khéo có thể đưa tới trả thù hay tranh cãi giữa làng này với làng kia.”

Tôi thừa biết lý do thực sự bà không muốn tôi chơi với Tuyết Hoa.  Gia đình Tuyết Hoa bị tai tiếng, còn nhà chồng thì làm nghề ô uế.  

“ Về phần con Tuyết Hoa thì số trời đã định,” mẹ chồng tôi tiếp tục, “ Còn cô thì khác.  Vợ chồng tôi mong cô nghe lời chúng tôi mà đoạn tuyệt với một người không còn là lão đồng đúng nghĩa nữa.  Nếu muốn bạn thì tôi có thể giới thiệu cô với những nàng dâu trẻ khác ở Tùng Khẩu.”
“ Con đã gặp họ rồi.  Cám ơn mẹ,”  Tôi nói lí nhí mà trong lòng thì thét to.  Không bao giờ, không bao giờ.  
“ Họ muốn mời cô nhập hội tỉ muội có chồng.”
“ Dạ.  Con cám ơn mẹ nhưng---”
“ Cô phải xem đấy là một vinh hạnh.”
“ Dạ vâng.”
“ Tôi chỉ nói thế cho cô hiểu.  Cô phải gạt nó ra khỏi đầu mình.  Tôi không muốn những ý nghĩ về người đàn bà đáng thương đó ảnh hưởng đến cháu đích tôn của tôi.”

Mấy bà dì hai che miệng cười khúc khích.  Thấy tôi bị la là thích lắm.  Nhưng ngoài chuyện này ra thì mẹ chồng đối xử với tôi còn tốt hơn mẹ tôi.  Cứ noi theo tam tòng mà làm là xong chuyện.  Thế nhưng hôm trước mẹ chồng tôi đã nói lầu bầu trong khi đang bực với đức ông chồng.
“ Muốn tòng thì cứ tòng, rồi làm gì thì vẫn làm.”  
Trong lúc này họ có thể ngăn không cho tôi gặp Tuyết Hoa, nhưng họ không thể cấm tôi yêu nó.

“ Tuyết Hoa,

Chồng tôi tốt với tôi.
Ruộng nương ở đâu cũng chẳng biết.
Tôi cũng làm cật lực.
Làm cái gì mẹ chồng cũng để ý.
Phụ nữ nhà tôi giỏi nữ thư.
Mẹ chồng dạy tôi chữ mới.
Lần tới gặp cho xem.
Tôi thêu thùa, dệt vải, và khâu hài.
Tôi dệt sợi và nấu ăn.
Tôi có thằng con trai.
Tôi cầu Nữ Thần xin thêm thằng nữa.
Bạn cũng thế.
Nghe lời tôi đi.
Nghe lời chồng, nghe lời nhạc mẫu.
Đừng cả lo.
Nhớ thời mình cùng thêu và thì thầm ban đêm.
Mình là cặp ngỗng uyên ương.
Mình là đôi loan phượng bay ngang trời.

Bách Hợp.”

Lá thư sau Tuyết Hoa không nhắc gì đến gia đình chồng.  Chỉ nói con đã biết ngồi.  Cuối thư nó lại hỏi tôi:

“ Ăn uống ra sao? Nói những chuyện gì?
Họ có nói chuyện kinh sử trong khi ăn không?
Mẹ chồng bạn có kể truyện cho đàn ông nghe không?
Mẹ chồng bạn có hát cho họ tiêu cơm không?”

Tôi cứ có sao nói đó.  Mấy ông nhà tôi toàn nói chuyện tiền bạc: Mua đất ở đâu, ai cày, thuế má bao nhiêu.  Lúc nào họ cũng muốn “hoạch đắc” với “đáo đỉnh.”  Tôi không hiểu và cũng không muốn hiểu.  

Tôi mong Tuyết Hoa hạnh phúc hơn, chấp nhận số phận mà định mệnh đã an bài.  Rồi một buổi chiều đang cho con bú thì kiệu bà Vương xịch lại trước cửa.  Một lát sau mẹ chồng tôi lên gác vất lá thư trên bàn, mặt tỏ vẻ khó chịu.  Dỗ cho con ngủ xong, tôi vội mở thư đọc.

“ Bách Hợp,
Tôi đang ngồi khóc trên gác.  Bên ngoài chồng tôi đang mổ lợn.  
Khi mới lấy về, mẹ chồng bắt tôi đứng coi giết lợn.  Chồng tôi và bố chồng gánh một con lợn treo ngược ra sân.  Con lợn như biết, kêu la thảm thiết.  Bố chồng tôi đè nó xuống cạnh chảo nước sôi.  Chồng tôi cắt cổ lấy tiết rồi đẩy con lợn vào chảo.  Sau khi da mềm thì chồng tôi bắt tôi cạo lông.  Tôi khóc lóc ầm ĩ nhưng không to bằng con lợn.  
Càng ngày tôi cáng giống vợ chàng Vương.  Bạn có nhớ truyện đó không? Tôi bắt đầu ăn chay.  Họ chẳng cần.  Càng đỡ tốn thức ăn.  
Tôi không còn gì trên cõi đời này trừ bạn và thằng con trai.  Phải chi hồi đó tôi đừng dối bạn.
Tôi ngồi tựa cửa mà tưởng tượng bạn cũng đang ngồi nhìn về hướng tôi.  
Không có bạn, buồn quá.  Ráng viết cho tôi.
Tuyết Hoa.”

Tôi nhìn qua song cửa, ước gì có thể ôm bạn vào lòng an ủi.  Trước mặt mọi người, tôi lấy giấy bút viết thư cho bạn.  Trước khi đặt bút xuống giấy, tôi đọc lại lá thư.  Lần đầu chỉ thấy buồn, đọc lại thấy nó bỏ thông lệ viết lòng vòng mà dùng nữ thư viết thẳng và thật về cuộc đời.  
Tôi chợt nhận ra mục đích thật sự của nữ thư.  Nữ thư không để viết thư con gái vớ vẩn hay để giới thiệu với nhà chồng.  Đó là tiếng nói của chúng tôi.  Đó là để ý tưởng bay ngang đồng ruộng như Tuyết Hoa đã làm.  Đàn ông không nghĩ chúng tôi có gì để nói.  Họ không nghĩ chúng tôi có cảm xúc hay ý tưởng sáng tạo.  Từ nay tôi sẽ nói thẳng sự thật, sẽ bỏ kiểu viết vòng vo.  Nghĩ gì viết đó.  Viết như tâm sự khi còn trên gác ở nhà.  

“ Tuyết Hoa,
Tôi khóc khi nghĩ đến bạn ở nơi đó.  Người tốt như bạn đáng lý không phải đối diện với những sấu xa như vậy.  Mình phải gặp nhau.  Đến nhà bố mẹ tôi trong Ngày Hội Đuổi Chim.  Mình mang con về.  Sẽ vui lại.  Nhớ là ở gần giếng không sợ chết khát.  Có chị có em thì không thể tuyệt vọng.  Tỉ muội muôn đời của bạn.  
Bách Hợp.”


Đầu tháng Hai đánh dấu mùa trồng lúa, và cũng là Ngày Hội Đuổi Chim.  Sáng hôm đó đàn bà trong nhà dậy sớm làm cơn nắm; bên ngoài loài chim muông đợi người ta rắc hạt.  Rồi một lũ con gái chưa chồng mang cơm nắm ra cắm trên những cái que để dụ chim tới, trong khi đàn ông rắc thuốc độc chung quanh cánh đồng.  Sau đó những người đàn bà có chồng lên kiệu về quê ngoại.  Người ta bảo không về thì loài chim sẽ ăn hết hạt giống và sẽ kông bao giờ có được con trai.  

Kiệu của tôi ghé ngang làng Kim Điền nhưng tôi không dám bước ra sợ người ta thấy.  Cửa bật mở và Tuyết Hoa ôm con bước vào.  Tám tháng đã trôi qua kể từ khi gặp nhau tại Đền Khưu Phổ.  Vú của nó to hơn vú tôi nhưng con nó gầy hơn con tôi.  Bụng nó đã hơi lum lúp nên phải ẵm con trên vai.

Nó quay mặt con lại cho tôi xem.  Tôi nhấc con tôi lên để hai đứa nhìn mặt nhau.  Đứa bẩy tháng đứa sáu tháng.  Người ta nói trẻ con nào không đẹp.  Tôi thấy con tôi đẹp nhưng con nó gầy còm, nước da tái nhợt.  Nhưng dĩ nhiên tôi khen con nó đẹp và nó khen con tôi đẹp.

Trong khi kiệu khiêng dập dình, thì chúng tôi nói chuyện vãn.  Nó đang thêu một câu thơ vào miếng khăn, còn tôi đang học nấu món bồ câu tần.  Nhưng khi tôi đi thẳng vào đề, hỏi nó thế nào, thì nó nói ngay.  
“ Mở con mắt dậy, chỉ còn thấy con là vui,” nó thú thật.  “ Mình thích hát trong khi giặt dũ hay nhặt củi, nhưng chồng nghe thấy là nổi nóng.  Tối đi ngủ, biết rồi cũng phải thức dậy, nhưng không có bình minh, chỉ có bóng tối.”
Tôi cố an ủi nó.  “ Tại mới đẻ xong mà lại nhằm vào mùa đông.” Biết là không có quyền so sánh nỗi cô đơn của mình với nó, nhưng tôi cũng cảm thấy một nỗi buồn man mác trong những ngày ngắn đêm dài cuối đông.  “ Xuân sắp đến rồi. Ngày dài sẽ vui hơn.”

“ Tôi lại thích ngày ngắn,” nó nói tỉnh bơ. “ Chỉ đi ngủ mới hết nghe than.”
Tôi hết biết nói gì luôn.  Mấy hôm trước đã bụng bảo dạ là nghĩ gì nói đó, nhưng trong lúc bối rối, tôi lại bổn cũ soạn lại.  
“ Tôi nghĩ mình cứ cố chiều là xong,” tôi nói.  “ Cố lên.  Mẹ chồng già, mẹ chồng sẽ chết.  Bạn là vợ cái con cột mà lo gì.  Rồi sẽ đứng lên cai quản hết. Rồi thằng cu, vài bữa nữa biết đi, tha hồ mà đuổi. ”
Tuyết Hoa xoa xoa cái bụng nói.  “ Lại có bầu nữa rồi.”
Tôi ngoài mặt chúc mừng nhưng trong bụng băn khoăn.  Hèn chi vú nó căng, bụng nó lum lúp.  Nhưng sao mà có bầu lại sớm vậy? Chắc lại không kiêng ba tháng mười ngày rồi.
“ Thêm một thằng cu nữa đi,” tôi nói nhẹ hều.
“ Cũng mong thế,” nó thở dài.  “ Chồng tôi nói đẻ con gái chẳng thà nuôi con chó sướng hơn.”
Thì ai chả biết như vậy, nhưng nỡ lòng nào vợ đang có bầu mà nói vậy.  Đang lúng túng không biết nói sao thì may quá kiệu vừa ngừng trước cửa nhà.  

Nhà tôi giờ khác hẳn.  Vợ chồng anh Cả đã có hai đứa con.  Chị ấy về thăm nhà trong dịp Hội Đuổi Chim nhưng để lũ nhỏ ở lại.  Em tôi chưa có vợ nhưng cũng đang rục rịch.  Chị Lớn mang hai đứa con gái, một thằng con trai về.  Chị trông già sọm.  Bố tôi mặt mũi tươi rói hãnh diện, nhưng tôi biết nuôi bằng ấy miệng ăn không phải chuyện dễ.  Vị chi là bẩy đứa nhóc tì, lớn nhất sáu tuổi, nhỏ nhất sáu tháng.  Tiếng trẻ con chạy rầm rập, hét hò khiến nét mặt thím tôi rạng rỡ hẳn lên.  Chỉ có thỉnh thoảng thấy thím lén chùi một giọt lệ bỗng dưng nhỏ xuống.  Nếu trời già đừng bất công thì trong đám trẻ này đã có con của Diễm Nguyệt.  

Trong suốt ba ngày chúng tôi tha hồ chuyện vãn, nói cười, ăn uống.  Tuyết Hoa và tôi thích nhất những đêm ngủ trên gác.  Chúng tôi đặt con nằm giường giữa.  Nhìn hai thằng nằm kế nhau mới thấy rõ sự khác biệt.  Con tôi mũm mĩm, tóc chỉa lên trời giống bố.  Nó bú hì hục cho đến khi no kềnh bụng rồi mới ngửng đầu nhìn tôi mà toét miệng cười.  Con Tuyết Hoa thì mỗi lần ăn là một lần oẹ, hay khóc nhè, và đít thì nổi ban kín mít.  Nhưng khi chúng tôi rúc vào chăn thì chúng nằm yên, lắng nghe tiếng chúng tôi thầm thì.  

“ Bồ có thích chuyện chăn gối không?” Tuyết Hoa hỏi khi mọi người đã ngủ say.
Hồi xưa mỗi lần nghe mấy bà có chồng nói chuyện bù khú thì chúng tôi chẳng hiểu gì hết.  Giờ thì quá rành.  
“ Cả hai vợ chồng tôi đều thích món ấy,” Tuyết Hoa nói tiếp. “ Chỉ có cái là ổng không chịu nhịn đủ một trăm ngày sau khi sanh nở.  Mới có ba tuần là ổng đè mình ra.  Mà mình cũng thích nên không hề phản đối.”
“ Không được.  Phải kiêng cữ cho cẩn thận.” Tôi nói.
“ Không kiêng thì sao?
“ Nhỡ ốm đau rồi lăn ra chết thì sao.” Tôi nói.
Nó bật cười thành tiếng.  “ Chẳng ai chết vì ân ái bao giờ cả.  Chỉ có sướng thôi.  Cả ngày đã phải làm việc quần quật hầu mẹ chồng rồi, ban đêm phải cho người ta hưởng chứ.  Lần này mà có con trai thì thích nữa.”
Tôi hiểu mối quan tâm của nó.  Thằng cu này có vẻ quá èo ọt, phải thêm một đứa nữa cho chắc ăn.  

Ngày vui chóng qua, vèo một cái đã hết ba ngày.  Kiệu thả Tuyết Hoa trước nhà rồi mang tôi về nhà.  Chả ai biết gì.  Mấy thằng kiệu phu thì đã đút lót hậu hĩ rồi, không phải lo.  Từ đây sẽ còn nhiều dịp gặp lại Tuyết Hoa.  Mỗi dịp lễ hội là một dịp về nhà, rồi lại còn viếng Đền Khưu Phổ hàng năm nữa.  Tuy đã có chồng nhưng vẫn là lão đồng, mặc cho mẹ chồng muốn nói gì thì nói.

Những tháng sau đó, chúng tôi tiếp tục viết cho nhau.  Những câu chuyện hàng ngày của hai bà mẹ trẻ-- con mọc răng, con tập nói, con tập đi.  Dần dà rồi cũng bắt được nhịp điệu của cuộc sống mới, biết cách chiều mẹ chồng và thích nghi với vai trò làm vợ.  Tôi cũng chia sẻ về chồng tôi cùng những phút gần gũi.  Người ta có câu: “ Lên giường làm trượng phu, xuống giường làm quân tử.”  Tôi thích chồng tôi làm quân tử hơn.  Ban ngày chàng là người sáng suốt, để ý lắng nghe, và dễ thương.  Ban đêm thì tôi cố chiều chồng, nhưng thở phào nhẹ nhõm khi xong bổn phận.  Chẳng hiểu con Tuyết Hoa nó thích là thích ở cái chỗ nào.  


Bách Hợp,
Con gái tôi chết trước khi sanh.  Cũng được, khỏi biết đau khổ là gì.  Tôi cầm bàn chân nó.  Khỏi nạn bó chân.  Tồi sờ mắt nó.  Khỏi phải buồn vì xa gia đình.  Tôi đặt tay trên ngực nó.  Khỏi phải biết đau buồn, cô đơn, nhục nhã.  
Mọi người xúm vào mắng tôi.  Mẹ chồng tôi nói, “ Không đẻ con trai thì lấy về làm gì?”  Chồng tôi nói, “ Cô còn trẻ.  Lần sau đẻ con trai.” Tôi không có cách nào để khuây khỏa.  Phải chi có bạn ở đây.  
Tôi tưởng tượng mình là loài chim, bay cao vút vào trong mây, xa vời tất cả.
Tuyết Hoa.

Miền tôi xảy thai là chuyện bình thường.  Nếu là con gái thì chẳng có gì phải buồn.  Đỡ một miệng ăn.  Tôi cố tìm chữ để an ủi bạn nhưng khi cầm bút lại lui về vùng an toàn của những sáo ngữ.

Tuyết Hoa,
Tôi ngồi trên gác viết vài lời an ủi bạn.
Hãy cố nghe tôi.
Đừng có buồn nữa.
Tưởng tượng tôi bên cạnh bạn.
Nước mắt chúng ta thành một giòng, chảy mãi không ngừng.
Cuộc đời có số phần hết.
Ráng có bầu lại.
Lần tới, con trai---

Hai năm sau con tôi đã biết chạy biết nói.  Ba tuổi nó đã biết cầm bút nên cả nhà xúm lại mà chiều.  Mấy bà vợ lẽ cứ là tranh nhau mà nựng nịu. Thằng lớn lên ba thì tôi đẻ thằng thứ hai.  Trong khi đó Tuyết Hoa lại xẩy thai.  Tôi nói nó đi tìm thầy bắt mạch hốt thuốc để có con trai và tăng cường sinh lý.  Tuyết hoa viết thư cám ơn, nói là nhờ uống thuốc mà hai vợ chồng tha hồ thỏa mãn.



























14-  Buồn Vui

Con tôi lên năm thì chồng mướn thầy về dạy, phí tổn bao nhiêu ông bà nội sẵn sàng đài thọ hết.  Ngày nó rời gác thượng, tôi khóc hết nước mắt.  Chưa bao giờ tôi cảm thấy hãnh diện như vậy.  Mong có một ngày nó sẽ vào kinh ứng thí.  Nhưng tôi cũng cảm thấy một sự trống rỗng không gì, kể cả thằng bé lí lắc, mấy bà thiếp chí choé, và đám chị em dâu kèn cựa, có thể lấp được.  May thay, đầu năm tôi lại có bầu.

Lúc ấy gác thượng đã bắt đầu chen chúc.  Cô em dâu thứ ba vừa dọn vào là bĩnh ra một con hĩm.  Tiếp theo sau là nàng dâu thứ tư.  Nàng cũng đẻ con gái.  Nàng này chỉ giỏi than phiền, ai cũng sợ.   Mẹ chồng tôi thì hất hủi nó.  Dĩ nhiên tin tôi có bầu làm mấy mợ ghen lồng lên.  Trong cái tiểu xã hội trên gác, người nào có kinh người nào không có kinh, ai cũng biết, ai cũng bàn.  Bà mẹ chồng tôi nói oang oang cho mọi người nghe.  “ Không đẻ con trai, chồng có vợ lẽ ráng mà chịu,”    Bà nói vậy nhưng lại ghét cay ghét đắng mấy bà thiếp của chồng.  Lần này tôi muốn một đứa con gái.  Lý do cũng thực tế thôi.  Con trai mới nứt mắt ra đã xa mẹ, còn con gái thì quấn quít cho đến khi về nhà chồng.  Tôi được tin Tuyết Hoa lại có bầu.  Tôi mong nó có con gái.

Cơ hội gặp nhau tốt nhất sắp tới là lễ Tế Thường, ngày sáu tháng sáu.  Tôi nghĩ mẹ chồng tôi biết việc tôi đi lại với Tuyết Hoa nhưng không đá động tới, miễn sao đừng quá lộ liễu và vẫn chu toàn bổn phận là được rồi.  Như những lần trước, chúng tôi thích nhất những giờ phút bên nhau trên gác nhà bố mẹ tôi.  Dĩ nhiên có con nằm bên cạnh không thể gần gũi như xưa, nhưng chúng tôi vẫn rù rì tâm sự.  Tôi nói thèm có con gái để còn có mẹ có con.  Tuyết Hoa xoa bụng nhắc nhở là con gái chỉ ăn hại và không nối dõi tông đường.  

“ Đâu phải cứ con gái là vô dụng,” tôi nói.  “ Sao mình không cho chúng làm lão đồng--kết nghĩa tỉ muội trước khi sanh?”
“ Bách Hợp, mình đây còn vô dụng nữa là,” Tuyết Hoa ngồi dậy.  Tôi nhìn thấy mặt nó dưới ánh trăng vàng.  “ Bạn phải biết điều đó chứ?”

“ Không có mẹ sao có con trai?” Tôi nói.  Vị trí tôi trong gia đình được chắc chắn cũng nhờ có con trai.  Tuyết Hoa chắc cũng vậy.  “ Tuyết Hoa, bộ bạn không muốn con gái mình kết nghĩa lão đồng sao?”

Nó nhìn tôi, nở một nụ cười buồn.  “ Dĩ nhiên.  Nếu mình đẻ con gái.  Tụi nó sẽ tiếp tục mối tình của mình ngay cả sau khi mình đã về bên kia thế giới. “

“ Coi như xong.  Thôi, nằm xuống cạnh tôi đi.  Không chau mày nữa.  Đây là giờ phút hạnh phúc.  Hãy cùng nhau tận hưởng.”

Mùa Xuân sau chúng tôi mang con gái về Phổ Oai.  Ngày sanh tháng sanh của chúng không hạp.  Bàn chân chúng cũng không bằng nhau.  Là mẹ, ai chả thấy con mình đẹp, nhưng tôi
phải công nhận là Xuân Nguyệt, con gái Tuyết Hoa, đẹp hơn Bích Ngọc, con gái tôi, nhiều.  Bích Ngọc da hơi ngăm ngăm đen không giống gia đình họ nội, trong khi nước da Xuân Nguyệt
trắng như quả bạch đào.  Tuy bát tự không hợp nhưng cũng chẳng thắc mắc.  Chúng nó sẽ là lão đồng.

Hai đứa tôi mở quạt nhìn lại quãng đời đã qua.  Thật nhiều hạnh phúc.
“ Rồi có một ngày hai đứa con gái sẽ gặp nhau và thành lão đồng,” tôi viết.  “ Chúng sẽ như một cặp ngỗng uyên ương.  Một cặp khác đậu trên cây cầu mà lòng hân hoan nhìn chúng bay cao.”



Hai năm sau Tuyết Hoa gửi thư báo đã sanh một đứa con trai thứ hai.  Nó thì hân hoan, còn tôi cảm thấy phấn khởi vui mừng cho nó.  Nhưng niềm vui không được lâu thì nghe tin Hoàng Đế Đạo Quang đã băng hà.  Cả nước để tang trong khi Thái Tử Hàm Phong lên ngôi.  Khi một vị Hoàng Đế chết đi thì nhiều khi cả triều đình thay đổi và thường dẫn đến xáo trộn cho cả nước.  Trong bữa ăn, mấy ông nhà tôi bàn tán xôn xao chuyện xảy ra ngoài Tùng Khẩu.  Tôi nghe loáng thoáng có giặc nổi lên ở đâu không biết, và chủ đất bắt đầu tăng tiền thuê ruộng.  Tôi chỉ thấy tội nghiệp cho những người như gia đình tôi.

Bác Lỗ bị mất chức nên phải trở về Tùng Khẩu.  Cả nhà quì rập đầu xuống đất khi bác bước xuống kiệu trước cổng làng.  Khi ngẩng lên, tôi thấy một ông già mặc áo chùng lụa.  Ông có hai cái nốt ruồi trên mặt.  Ai cũng quí những cọng râu mọc trên nốt ruồi, nhưng bác Lỗ có tới ít nhất là mười cọng râu-- bạc trắng, dài tối thiểu ba phân--mà ông lúc nào cũng vuốt nhẹ.  

Ông đảo mắt nhìn mọi người rồi chỉ để ý mình thằng con trai tôi.  Con tôi năm nay đã lên tám.  Bác Lỗ theo lẽ phải chào em trai trước, nhưng lại đặt một bàn tay đầy gân xanh lên vai con tôi.  
“ Đọc thiên kinh vạn quyển xong ,” ông nói, giọng nghe có học và thay đổi vì sống lâu ở kinh,
“ thì chữ nghĩa sẽ tuôn ra như một giòng sông.  Thôi, chú nhỏ, hãy dắt ta về nhà.”  Thế là một già một trẻ nắm tay nhau đi tập tễnh qua cổng làng.

Khi Tuyết Hoa và tôi gặp nhau lại năm ấy thì chúng tôi đã ba mươi tuổi và đã là lão đồng được hai mươi ba năm.  Tôi giờ đây đã là một người mẹ với  ba trai một gái, còn nó thì hai trai một gái.  Ở nhà Tuyết Hoa, mấy bà em chồng đã đi lấy chồng hết nên đỡ phải hầu.  Bố chồng nó đã chết do tai nạn khi giết lợn.  Con lợn giẫy quá mạnh làm con dao tuột khỏi tay và xẻ dọc cánh tay.  Ông xuất huyết cho đến chết ngay trước sân nhà như bao con lợn ông đã giết.  Giờ thì chồng Tuyết Hoa là chủ gia đình nhưng vẫn dưới quyền điều khiển của bà mẹ.  Thằng con thứ hai của Tuyết Hoa đã là một chú bé khoẻ mạnh chập chững tập đi.  Ai cũng cưng nó và ai cũng nghĩ thằng lớn sẽ sống không quá mười tuổi.

Tuyết Hoa luôn là người cảnh giác hơn tôi.  Nó nói đám giặc đang làm loạn xưng danh là Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn cầm đầu.  Ông tự nhận mình là người được thượng đế cử xuống để thế thiên hành đạo, chống lại Thanh triều với khẩu hiệu “ Phản Thanh, diệt than ô tàn bạo, khôi phục lại nhà Minh.”  Đám quân nổi dậy được sự ủng hộ mạnh mẽ của dân nghèo.  Nội trong huyện tôi, hàng trăm ngàn người đã bỏ nhà gia nhập đạo quân chiếm đóng làng mạc, tỉnh thành.
Khi về nhà, tôi hỏi chồng về loạn Thái Bình thì chàng mắng,  “ Đàn bà chỉ nên lo cho gia đình và con cái.  Cứ lắm chuyện như vậy, lần sau không cho về nhà nữa.”  Thế là tôi im miệng luôn.


Năm nó lại ít mưa nên cả làng bị đói kém.  Kho lúa của nhà tôi bắt đầu vơi cạn.  Chẳng bao lâu thì làm vãi trà hay đốt lửa to quá cũng bị mẹ chồng tôi chửi.  Bố chồng tôi bắt đầu ăn bớt thịt để nhường cho thằng cháu đích tôn.  Bác Lỗ tuy không than phiền nhưng bắt ép con tôi học hành chăm chỉ hơn may ra có thể khôi phục lại gia đình.  

Đến đêm sau khi tắt đèn lên giường, chồng tôi nói.  “ Không biết Lỗ đại thúc thấy cái gì nơi thằng nhỏ mà đốc thúc nó quá vậy.  Dĩ nhiên là mừng, nhưng chỉ lo vài năm nữa có thể phải gửi nó đi học xa rồi tiền đâu ra.  Tình trạng này mà kéo dài thì phải bán ruộng mà ăn.”  Chàng nắm tay tôi nói.  “ Bách Hợp, anh có chí hướng này, cha đã đồng ý, nhưng anh chỉ lo cho em và các con thôi.”
Tôi nằm yên đợi xem chàng nói gì.
“ Có những nhu cầu căn bản, không thể thiếu được,” chàng nói tiếp.  “ Không khí, mặt trời, nước, củi là của trời cho.  Nhưng muối thì không, mà ai cũng cần có muối.”
Tôi nắm chặt tay chàng, không biết sẽ nói gì tiếp.
“ Anh xin phép cha gom góp hết tiền bạc giành giụm,” chàng nói, “ Anh sẽ đi Quế Lâm mua muối mang về đây bán.  Anh chắc sẽ đi khoảng độ một năm là về.  Cha đã chấp thuận rồi.”

Quế Lâm thuộc lãnh vực tỉnh khác.  Muốn tới đó, phải đi qua vùng phiến quân đang chiếm đóng.  Không gặp phiến quân thì cũng gặp nông dân đói phải quá đi cướp đường.  Đó chính là lý do tại sao muối trở nên khan hiếm.  Những người buôn muối tỉnh tôi có cả đạo quân dưới trướng, trong khi chồng tôi chỉ có một thân một mình.   Không chỉ thế thôi, trong đầu tôi lại tưởng tượng đến bao nàng kiều nữ ở Quế Lâm.  Biết đâu chàng sẽ mang một em về làm thiếp không chừng.  
“ Đừng có mà đi hái hoa dại nhé,” tôi buột miệng.
“ Anh chẳng có rồ dại gì mà bỏ vợ cái con cột,” chàng nói trấn an tôi.  “ Anh sẽ đường đường chính chính, không nhìn ngang liếc dọc.  Còn em, ở nhà lo cho con cái và vâng lời cha mẹ.”

Chàng đi mà trong lòng tôi lo ngay ngáy.  Nếu chàng có mệnh hệ nào thì thân tôi sẽ ra sao?  Con thì còn bé, cha chồng tôi có thể bán tôi cho người khác.  Nếu thế là hết đường gặp lại con.  Bởi thế lắm người góa phụ đã phải tự vẫn.  Nhưng khóc lóc lo lắng cũng chẳng làm được gì, tôi phải bình thản để lo cho con.

Nhớ thằng lớn quá nên tôi tình nguyện nấu nước pha trà.  Khi xuống nhà thì tôi léo hánh tới gần để nghe lóm Lỗ đại thúc dậy học nó.
Nó đang oang oang trả bài.“ Tam tài giả, thiên địa nhân. Tam quang giả, nhật nguyệt tinh.  Tam cương giả, quân thần nghĩa.  Phụ tử thân, phu phụ thuận.”
(Tam tài có nghĩa là ba bực: Trời, Đất và Người.  Tam quang là ba vật sáng: mặt trời, mặt trăng, và sao.  Tam cương là ba riềng mối: vua tôi có nghĩa, cha con thân cận, vớ chồng hòa thuận.  Giải thích của người dịch.)
Trong khi nó trả bài thì Lỗ đại thúc cầm cái roi tre nhịp nhịp, chỉ chực nói sai là quất ngay vào bàn tay.  

Tuyết Hoa lại có bầu.  Tôi gởi tặng nó khăn tay để chúc mừng, trên đó thêu những con cá vẩy bạc óng ánh nhẩy trên một giòng suối trong xanh.  Một hình ảnh mát mẻ cho người có bầu mùa hè.

Năm nay cái nóng đến sớm hơn mọi năm.  Đàn ông làng kể cả bố chồng và em chồng tôi mang lũ trẻ con ra sông để chúng tắm bì bõm cho mát.  Đây là giòng sông tôi đã từng khoáng chân cho mát khi còn bé.  Nhưng đây cũng là giòng sông mà lũ đầy tớ ngày ngày ra giặt giũ và múc về uống.

Ca thương hàn đầu tiên bắt đầu với người con trai một gia đình tá điền, rồi cả nhà lăn ra chết.  
Cơn bệnh bắt đầu bằng cơn sốt vã mồ hôi, rồi nhức đầu và đau bụng.  Thỉnh thoảng cũng có ho và ban dát chấm mầu hoa hồng xuất hiện. Nhưng một khi đã bắt đầu tiêu chảy thì chỉ vài tiếng sau là mê sảng rồi chết.   Khi nghe nói có đứa trẻ bị bệnh thì ai cũng biết chuyện sẽ xảy ra kế tiếp.  Đứa trẻ chết trước, rồi anh chị em, rồi mẹ, rồi cha.  Vì mẹ không nỡ bỏ con và chồng không nỡ bỏ vợ.  Chẳng bao lâu thì làng nào trong tỉnh cũng có trường hợp bệnh.  

Gia đình họ Lỗ rút về nhà đóng chặt cửa, không giao dịch với bên ngoài.  Đầy tớ bỏ đi, không biết vì bị đuổi hay vì sợ mà trốn.  Đám đàn bà đem con lên lầu cho an toàn hơn.  Thằng bé mới đẻ, con trai em dâu thứ ba là đứa đầu tiên có triệu chứng.  Trán nó nóng như lửa, mặt nó đỏ bừng.  Thấy vậy, tôi gọi thằng lớn và mang hết con tôi vào phòng, khóa chặt cửa lại.  “ Chỉ có mẹ là được ra khỏi phòng,” tôi dặn chúng.  “ Anh cả sẽ trông tụi bay khi mẹ đi ra ngoài.  Phải nghe lời anh.”

Mỗi ngày tôi rời phòng một lần buổi sáng và một lần ban đêm.  Tôi biết bệnh lây lan qua phân nên tự tay mang bô ra đồng đổ, rồi rửa sạch chân tay.  Tôi múc nước giếng, nấu sôi và gạn lọc cho sạch.  Tôi chỉ dám nấu cháo trắng hai lần một ngày.  Còn ngoài ra chúng tôi ở cấm cung trong phòng.  Ban ngày tiếng chân người chạy rầm rập, đến đêm lại có tiếng kêu thảm thiết của những bà mẹ vang vọng lại.  Sáng sớm ra tôi áp tai vào cửa nghe xem ai còn ai mất.  Vì không có ai chăm nên mấy bà vợ bé chết trong đau khổ và cô độc.  

Đêm ngày tôi lo cho Tuyết Hoa và chồng tôi.  Phòng tôi chỉ có một cửa sổ trên cao, không nhìn thấy ra ngoài.  Mùi chết chóc thối tha từ bên ngoài theo không khí ẩm ướt bay vào.  Tôi thầm kiểm điểm những việc phải làm: Cầu nguyện.  Quấn con bằng vải đỏ.  Quét nhà ba lần để xua đuổi tà ma.  Tôi cũng liệt kê những cái phải tránh: không ăn thức ăn xào rán.  Nếu chồng ở nhà thì cũng không gối chăn.

Một hôm trong lúc tôi đang nấu cháo hoa thì mẹ chồng tôi đi vào bếp, tay cầm một con gà chết lủng lẳng.  
“ Để dành làm quái gì nữa,” bà nói một cách cộc cằn.  Trong khì bà chặt gà ra thành miếng, bà nói.  “ Chết vì bệnh đâu chưa thấy, cho con ăn kiểu này, tụi nó sẽ chết vì đói.”
Tôi nhìn vào miếng gà mà miệng ứa nước rãi và bụng thì sôi lên sùng sục.  Nhưng tôi chẳng nói chẳng rằng, đổ cháo ra tô rồi đặt lên mâm.  Trước tiên tôi ngừng trước cửa phòng đại thúc, gõ cửa, rồi để một tô cho ông.  Tôi làm vậy không chỉ vì ông là người lớn tuổi nhất mà còn vì ông là thầy của con tôi.  Trong xã hội, tình thầy trò chỉ thua có tình cha mẹ với con cái.  
Còn mấy tô kia tôi mang về cho con tôi.  Khi con Bích Ngọc than, cháo gì mà không có hành ngò, không một tí thịt, ngay cả một miếng củ cải muối cũng không có, thì tôi tát ngang mặt nó.  Mấy đứa kia liền ngậm miệng ăn không nói tiếng nào, mặc cho con em cắn răng khóc thút thít.  

Một hôm khi tôi vào bếp thì thấy cô em dâu thứ ba đang đứng như một bóng ma giữa căn phòng tối tăm, ăn mặc trắng toát từ đầu xuống tới chân.  Nhìn thì tôi đoán chắc chồng con nó đã chết hết.  Tôi cảm thấy lạnh người bởi cái nhìn trống vắng, vô hồn trong đôi mắt.  Bên ngoài có tiếng loài chim đêm kêu chiêm chiếp và tiếng rên âm ỉ của một con trâu.
“ Con lợn vô dụng thì lại sống sót.” Một giọng nói đinh tai nhức óc vang lên đàng sau tôi.  
Mợ Ba không hề chớp mắt, còn tôi quay lại.  Thì ra đó là bà mẹ chồng.  Bà đã tháo trâm gài để mặc cho tóc sổ rũ rượi trước mặt.  “ Đáng lý ra tao phải cấm cửa không cho cái mặt mày vào nhà này.  Mày đã tiêu diệt họ nhà Lỗ này, con lợn bẩn thỉu.”

Mẹ chồng tôi nhổ một bãi nước miếng vào mặt mợ Ba.
“ Tao nguyền rủa mày,” Mẹ chồng tôi mặt mũi đỏ gay vì tức giận và buồn rầu.  “ Tao mong mày chết đi.  Nếu mày không chết thì chồng tao sẽ bán mày.  Nếu để cho tao thì mày không sống thêm một ngày.”

Sáng hôm sau khi tôi xuống nhà, tất cả trông có vẻ khác.  Dũng Cang và hai con đầy tớ khác đã trở về và đang lau chùi bếp núc và chất củi.  Dũng Cang nói Mợ Ba đã uống nước kiềm tự tử.  Phải chi cố đợi vài tiếng, vì đến trưa thì mẹ chồng tôi đã lên cơn sốt.
Tôi không biết phải làm sao đây.  Con cái, tôi đã dấu kỹ trong phòng, nhưng bổn phận làm dâu quan trọng hơn cả.  Không có chồng ở nhà, tôi phải dẹp nỗi sợ bệnh tật qua một bên để săn sóc, kẻo không mẹ chồng chết thì nỗi nhục đó không biết bao giờ có thể gột sạch được.  
Nhưng còn con thì sao.  Mấy cô em dâu khác đã chui hết trong phòng với gia đình của họ.  Họ có thể đã ốm hay đã chết không chừng.  Tôi không dám nhờ bố chồng trông con, vì biết đâu chẳng đã lây của vợ rồi.  Còn đại thúc thì từ hôm bắt đầu trận dịch cho đến bây giờ, không thấy mặt mũi đâu cả, nhưng mỗi tối vẫn để tô không ra cho tôi dọn.  

Đúng lúc đó thì Dũng Cang tới quì trước mặt nói, “ Để con trông tụi nhỏ cho.”
Tôi nhớ nó là người dắt tôi tới nhà Tuyết Hoa khi mới cưới xong, chăm sóc cho tôi sau mỗi lần sinh nở, và là người trung thành, kín đáo mỗi lần đưa thư cho lão đồng của tôi.  Và nó đã từ một đứa gái mười tuổi biến thành một người đàn bà chân to hai mươi mốt tuổi.  Tôi biết nó chưa bị lây bệnh và sẽ coi con tôi như con ruột.  
Tôi chỉ bảo cho nó chi tiết cách chuẩn bị thức ăn nước uống như thế nào, rồi tôi đưa nó con dao nhỡ cần đến, để canh gác trước cửa.  Sau đó tôi phó thác con tôi cho số mạng và bắt đầu công việc chăm sóc mẹ chồng.  Trong năm ngày sau đó, tôi lau đít khi bà không đủ sức ngồi bô.  Tôi nấu cháo như đã nấu cháo cho con; rồi tôi cắt cánh tay như đã thấy mẹ tôi làm để máu nhỏ xuống nồi cháo.  Đây là lễ phẩm tối cao của con dâu cho mẹ chồng, và tôi đã làm để hy vọng bà có thể tỉnh lại.

Khi bà trút hơi thở cuối cùng, tôi dùng nước ấm ngâm đàn hương để tắm gội xác bà.  Rồi tôi mặc cho bà quần áo liệm và nhét giấy nữ thư vào túi và tay áo.  Đúng ra phải đốt nữ thư trước mộ nhưng vì trời nóng và đang nạn dịch nên xác phải được chôn càng sớm càng tốt.  Sau khi chôn mẹ chồng xong thì tôi đã nghiễm nhiên trở thành trụ cột gia đình và từ nay các cô em dâu phải nghe lời răm rắp.   

Vừa lúc đó thì nạn dịch cũng bắt đầu giảm dần.  Người ta lục tục mở toang cửa kiểm điểm coi ai chết ai còn.  Nhà tôi mất bà mẹ chồng, nguyên gia đình chú Ba, và các bà thiếp.  Cả gia đình chú Hai và chú Tư đều còn toàn vẹn.  Ở nhà thì Cả Ba lẫn Má đều chết.  Dĩ nhiên tôi hối hận đã không có dịp chuyện trò nhiều trong lần thăm cuối, nhưng kể từ khi bó chân tôi cũng không còn gần Ba, và sau lần cãi nhau thì giữa hai mẹ con có một khoảng cách.  Là con gái có chồng, tôi chỉ phải để tang một năm.  

Kể ra như vậy vẫn còn khá may mắn.  Khi bước chân ra khỏi phòng, Đại Thúc đã từ một ông già hiền lành vui thú điền viên trở thành một vị thầy nghiêm khắc, giảng dạy không biết mệt.  Mặt khác thì thằng con tôi học hỏi chuyên cần mong một ngày sẽ đại đăng khoa, tiểu đang khoa, hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng rồi mới yên bề gia thất chu toàn đạo hiếu, nối dõi tông đường.  

Rồi một hôm, chồng tôi về nhà.  Không bút mực nào có thể tả được tâm trạng của tôi khi thấy bóng kiệu chàng xuất hiện trên con đường cái quan, theo sau là một đoàn xe bò chất đầy bao muối và thực phẩm.  Tôi gia nhập một đám phụ nữ Tùng Khẩu chạy ùa ra trong khi chồng họ đang chất hàng xuống.  Cô nào cũng òa lên khóc cho vơi đi những gánh nặng, sợ hãi, và âu sầu đã chất chứa trong lòng bấy lâu nay.  

Muối vừa mang về là cả tỉnh xúm lại mua.  Thế là tiền vào như nước, dư để trả thuế và mua lại ruộng đồng.  Năm ấy lại được mùa nên lễ hội mùa gặt càng thêm tưng bừng.  Bố chồng tôi cho mời nghệ nhân về vẽ thêm phù điêu dưới mái hiên.  Tuy hãnh diện nhưng trong thâm tâm ông nhớ vợ da diết và không còn thiết gì khác.  Một hôm ông ngã xuống chết trong khi đang đi xem ruộng.  Trước tiên chúng tôi đi mướn người khóc mướn giỏi nhất tỉnh.  Xác ông đặt trong quan tài để bên ngoài năm ngày.  Có phường bát âm tò te tí te cả ngày cả đêm.  Cả tỉnh đến khấu đầu trước quan tài, họ mang theo tiền nhét trong phong bì màu trắng, cờ gấm, và những bức hoành viết chữ ca tụng sự nghiệp.   Con và dâu đều phải bò đến nghĩa trang.  Dân làng xếp hàng đi theo sau.  Một giòng sông tang phục trắng xóa trườn qua những cánh đồng mạ non xanh ngát.  Đoàn người đi thất bộ nhất bái.  Cứ bẩy bước lại phải dừng lại quỳ xuống vái.  Mà đất chôn thì cách xa tới một cây số.

Già trẻ lớn bé đua nhau tru lên khóc trong khi phường bát âm kèn sáo, trống chiêng inh ỏi.  Là trưởng nam nên chồng tôi đốt vàng mã và pháo.  Chồng tôi cũng mướn tăng về làm lễ cầu siêu cho vong hồn bố chồng tôi cũng như tất cả những người đã chết trong trận dịch được giải thoát.  Sau khi chôn xong chúng tôi tổ chức một bữa đại tiệc mời cả làng đến dự.  Khi quan khách ra về, mỗi người được phát một đồng bạc lấy may,một miếng kẹo để ăn cho mất vị đắng của chết chóc, và một tấm khăn để lau sạch người.  Cái đó mới là tuần đầu.  Đám ma kéo dài suốt bốn mươi chín ngày.  Ma chay xong suôi thì cả làng, cả tỉnh gọi vợ chồng tôi là Lỗ Đại Nhân và Lỗ Thái Thái.











15-  Đường Lên Núi


Cho đến giờ tôi vẫn chưa biết tình cảnh gia đình Tuyết Hoa sau trận dịch.  Tôi phải lo đối phó với trăm thứ chuyện nên, lần đầu tiên trong đời, tôi đã quên bẵng đi người lão đồng của tôi.  Rồi một hôm tôi nhận ̣ược thư nó viết.

Bách Hợp thân mến,
Nghe nói bạn còn sống.  Cho mình chia buồn với những mất mát của bạn.  Nhất là Ba Má bạn.  Tôi mến họ lắm.  
Chúng ta đã thoát nạn.  Tôi lại xẩy thai lần nữa--một đứa con gái.  Chồng tôi nói thôi cũng được.  Nếu không sẩy thì có tới bốn đứa con gái--một đại họa.  Nhưng mỗi lần ôm xác con là một lần đau đớn.  
Bạn nói tôi cứ cố gắng.  Tôi sẽ cố.  Ước gì tôi có ba đứa con trai như bạn.  Như bạn từng nói.  Con trai là giá trị của mình.  
Bên này nhiều người chết nhưng mẹ chồng tôi vẫn còn sống và vẫn chửi rủa sa sả mỗi ngày.  
Tôi mời bạn đến thăm tôi. Dĩ nhiên căn nhà nghèo nàn của tôi không thể sánh được dinh cơ của bạn  Nếu còn thương thì xin hãy đến.  Tôi muốn gặp nhau trước khi mình bó chân con.  Sẽ phải bàn thêm.
Tuyết Hoa.

Chồng tôi dĩ nhiên không đồng ý cho đi.  Khi chàng đi làm về thì tôi hát cho chàng thư giản.  Tôi giao cho mỗi đứa con một công tác để chúng có việc làm.  Tôi nấu cho chàng những món ăn khoái khẩu nhất.  Buổi tối tôi rửa chân rồi xoa bóp chân chàng.  Sau đó tôi thỏa mãn thằng nhỏ của chàng.  Nhưng chàng vẫn không muốn tôi đi.  Phải chi tôi nghe lời chàng.

Ngày hai-mươi-tám tháng mười tôi mặc chiếc áo gấm mầu oải hương thêu hoa cúc hợp với mùa thu để chuẩn bị sang nhà Tuyết Hoa.  Chiếc kiệu hạ xuống trước cửa nhà.  Nó đang ngồi trước sân, bụng đeo tạp dề và đầu đội cái mũ vải màu chàm sờn rách và bẩn thỉu.  
Chúng tôi không vào nhà ngay.  Trong khi nó đang líu lo đủ thứ chuyện thì tôi có dịp nhìn kỹ cái chảo khổng lồ giữa sân trước   Cánh cửa của gian nhà phụ hé mở cho thấy những tảng thịt treo lủng lẳng.  Một con lợn mẹ và lũ lợn con đi ra đi vào sục sạo tìm thức ăn.   Bữa trưa là món cơm rau muống luộc.  Ăn xong, Tuyết Hoa bỏ bát xuống đất cho lợn ăn.  

Khi thấy ông chồng đồ tể trên đường về nhà, đang đẩy một cái xe trên đó có bốn cái rọ, mỗi cái là một con lợn nằm dài, thì chúng tôi lên gác.  Con gái Tuyết Hoa đang thêu thùa và mẹ chồng nhặt bông gòn.  Căn phòng ẩm mốc và tối tăm.  Bức cửa phên còn nhỏ hơn ở nhà bố mẹ tôi nhưng mùi lợn vẫn xông lên nồng nặc.  
“ Có định khi nào cho chúng bắt đầu bó chân chưa?” Tuyết Hoa hỏi.
“ Hồi đó mẹ mình đợi đến bẩy tuổi mới bó, và mình vẫn chơi với nhau vui vẻ cho tới giờ,”  tôi nói, hy vọng Tuyết Hoa cũng nghĩ vậy.
Tuyết Hoa nở một nụ cười rạng rỡ. “ Tôi cũng nghĩ vậy.  Mình có thể cho chúng bắt đầu cùng ngày và cùng tuổi như tụi mình.”

Tôi liếc nhìn con gái Tuyết Hoa.  Xuân Nguyệt đẹp giống mẹ ở tuổi đó, nó cũng có một làn da lụa là và mái tóc đen mềm, nhưng có vẻ cam phận khi nó ngồi cắm cúi thêu, cố không ghe lóm.

“ Chúng sẽ như cặp ngỗng uyên ương,” tôi nói.  Tôi nghĩ trong bụng,Tuyết Hoa may còn có con Xuân Nguyệt chứ không cả ngày phải bên cạnh bà mẹ chồng thì chỉ có chết.  Bà ta vẫn ngoa nguyền và ác độc như ngày nào.  Bà ta cứ ngồi lải nhải tối ngày: “ Thằng con lớn của mày không bằng con gái.  Yếu đuối như vậy thì làm sao mà giết lợn được?”  Tôi có một ý nghĩ không cao thượngi chút nào: Người như vậy mà sao không chết trong trận dịch cho rồi.

Bữa ăn chiều làm tôi nhớ lại thời bé còn ở với bố mẹ--đậu đũa muối chua, chân giò hầm ớt, bí đỏ xào, và gạo đỏ.  Bữa nào cũng thịt lợn.  Tương đen chưng mỡ lợn, tai lợn nấu niêu, lòng lợn nướng, pín lợn xào tỏi ớt.  Tuyết Hoa chỉ ăn cơm rau.

Ăn tôi xong bà mẹ chồng đi ngủ.  Theo đúng truyền thống,khi bạn lão đồng đến thăm thì chồng phải đi ngủ chỗ khác, nhưng anh chồng đồ tể nhất định không chịu đi.  Hắn nói, “Không có gì nham hiểm bằng lòng dạ đàn bà. “  Đó là một câu nói xưa rồi, nhưng lí ra không nên nói  trước mặt tôi chứ.  Nhưng nhà của hắn nên hắn muốn làm gì cũng phải chịu

Tuyết Hoa mang tôi lên gác, dọn chỗ cho tôi ngủ và để một chậu rửa mặt bên cạnh giường.  Tôi chỉ muốn lấy khăn nhúng nước để lau hết những muộn phiền khỏi khuôn mặt của cô bạn lão đồng của tôi.  Tuyết Hoa lấy trong tủ ra một bộ quần áo ngủ y hệt bộ của nó cho tôi mặc, rồi nó hôn nhẹ lên má tôi nói, “ Mai mình có cả ngày cho nhau.  Tôi sẽ cho bạn coi cái quạt rồi mình sẽ tha hồ mà tâm sự.”  

Sau khi nó ra khỏi phòng, tôi thổi tắt ngọn đèn và chui dưới chăn.  Ánh trăng màu xanh len lỏi qua song cửa làm tôi nhớ lại những kỷ niệm của một thời xa xưa.  Tôi rục mặt vào gối hít hà mùi hương của Tuyết Hoa.  Bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng rên ghe có vẻ sảng khoái.  Tôi đỏ mặt vì tưởng mình đã nhớ lại những gì đáng lý phải quên đi.  Nhưng âm thanh đó vẫn còn đó.  Tôi ngồi dậy.  Tiếng động phát ra từ phòng Tuyết Hoa.  Thì ra lão đồng của tôi đang làm tình với chồng.  Cô nàng tuy ăn chay nhưng vẫn ngủ mặn.  Không phải như vợ chàng Vương.  Tôi bịt tai cố dỗ giấc ngủ nhưng không được.  

Sáng hôm sau thì anh chồng đồ tể đi làm.  Tôi giúp Tuyết Hoa rửa bát, nhặt củi, kéo nước, thái rau cho bữa trưa, vào căn nhà phụ lấy thịt lợn, và lo cho con.  Xong suôi đâu đó thì còn phải nấu nước để tắm.  Nó khiêng ấm nước lên phòng trên lầu rồi đóng chặt cửa lại.  Trước giờ chúng tôi có bao giờ che dấu cái gì với nhau đâu?  Và tôi để ý thấy làn da--trước đây mịn màng--giờ đây sần sùi và thâm đen.  Bàn tay--trước đây mềm mại--giờ này nhám nhúa.  Những nếp nhăn bắt đầu xếp lớp quanh miệng và nơi khoé mắt.  Tóc búi tó sau gáy, sợi trắng xen kẽ sợi đen.  Đàn bà xứ tôi ít khi nào sống quá bốn mươi tuổi, nhưng mẹ chồng tôi mới mất ở cái tuổi năm mươi mốt mà trông vẫn còn được lắm.  
Bữa cơm tối hôm đó, lại thịt lợn.

Lúc ấy chúng tôi đâu có ngờ được là cái thế giới bên ngoài--cái thế giới đầy nhiễu nhương của đàn ông--đang sắp sửa chen vào giữa cuộc đời của tôi và của Tuyết Hoa.  Đêm thứ hai ở nhà của nó, chúng tôi thức dậy lúc nửa đêm vì những tiếng động sợ hãi.  Chúng tôi ngồi run rẩy chùm húm vào gian chính thất.  Cả nhà mịt mù khói.  Có đám cháy đâu đây.  Tàn tro bay khắp nơi và bám vào quần áo.  Tiếng binh khí chan chát và tiếng vó ngựa vang vang trong đầu.  Khi nhìn qua cửa số, chúng tôi thấy dân làng kế bên--đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé--đánh xe bò hay kéo xe, đi bộ hay cưỡi ngựa, lũ lượt bỏ làng đi về hướng núi.  Chồng Tuyết Hoa chạy ra hỏi họ.
“ Cái gì vậy? Chiến tranh hả?”
Tiếng người nhao nhao lên trả lời.
“ Hoàng Đế ra lệnh cho tỉnh Vĩnh Minh phải chống lại quân Thái Bình.”
“ Binh lính triều đình đã đến để đẩy lui quân phiến loạn.”
“ Đánh nhau khắp nơi.”
Anh đồ tể lấy tay làm loa la to.  “ Phải làm gì bây giờ?”
“ Chạy.”
“ Sắp đánh nhau to rồi.”

Tôi sợ điếng người.  Tại sao chồng tôi chưa đến đón?  Tại sao tôi lại đến đây đúng vào lúc này hở trời?  Tôi giúp Tuyết Hoa chất đồ vào bị cho mỗi người.  Chúng tôi vào bếp vơ vét gạo, trà, và rượu rồi cuộn chăn mền thành bó để trước cửa.  Xong suôi, tôi mặc áo gấm rồi ra đứng trước sân đợi chồng nhưng chẳng thấy bóng dáng chàng đâu.  Tôi nhìn con đường đi về Tùng Khẩu thì thấy một giòng người rời khỏi làng, nhưng thay vì đi về hướng núi thì họ lũ lượt đi về hướng tỉnh Vĩnh MInh.  

Đến xế chiều thì tôi thấy một nhóm kiệu phu tách khỏi đoàn người Tùng Khẩu và đi về hướng Kim Điền.  Tôi biết họ đến đón tôi, nhưng anh đồ tể không chịu đợi.  
“ Phải đi ngay bây giờ.” Hắn rống lên.  
Tôi muốn ở lại chờ gia đình nhưng anh đồ tể nói không được.  
“ Vậy thì tôi sẽ đi ra gặp họ,” tôi nói.  Anh đồ tể đưa tay chém trên không ra dấu cho tôi im miệng lại.  “ Giặc đến tới nơi rồi.  Biết khi gặp đàn bà một thân một mình họ sẽ làm gì không?  Nếu có chuyện gì xảy ra cho bà thì tôi ăn làm sao, nói làm sao với gia đình bà?”
“ Nhưng--”
“ Bách Hợp, “ Tuyết Hoa ngắt lời, “ Đi với tụi này đi.  Chỉ đi vài tiếng thôi, rồi sẽ gửi bạn về.  An toàn vẫn hơn.”
Anh đồ tể nhấc mẹ, vợ, con út, và tôi vào chiếc xe rồi cùng thằng con cả bắt đầu đẩy.  Tôi nhìn lại thấy khói lửa bốc mù mịt phía sau.

Cứ một chút Tuyết Hoa lại tiếp tế nước cho chồng và con trai lớn.  Trời đã vào thu và bắt đầu khá lạnh khi mặt trời xế bóng nhưng chồng và con Tuyết Hoa thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại.  Chẳng phải ai bảo, con Xuân Nguyệt bế em nhẩy xuống đi theo xe.  Anh đồ tể hứa sẽ ngừng lại nghỉ nhưng mãi vẫn chẳng thấy ngừng.   Đến lúc nửa đêm gần sáng khi trời tối đen như mực, thì đoàn người lam lũ khổ sở chúng tôi đến ngọn núi đầu tiên.  Anh đồ tể gồng người cố đẩy xe lên dốc nhưng không nổi.  Cuối cùng anh ta ngồi phệt xuống đất.  Tuyết Hoa xê đít ra cạnh xe, buông thõng hai chân xuống một lúc, rồi thả xuống đất.  Nó nhìn tôi.  Tôi nhìn lại.  Mặt trời đàng sau lưng Tuyết Hoa đỏ rực vì lửa cháy.  Hai đứa tôi mỗi người buộc hai cái chăn đàng sau lưng.  Anh đồ tể vác bao gạo trên vai và mấy đứa nhỏ đứa nào khuân được cái gì thì khuân.  Tôi chợt hiểu.  Nếu chỉ đi vài tiếng sao lại mang nhiều thức ăn thế?  Không biết bao giờ tôi mới gặp lại chồng con.  

Rồi chúng tôi gia nhập đoàn người đi bộ.  Tuyết Hoa và tôi mỗi người nắm một tay bà mẹ chồng, lôi lên dốc.  Nhìn chung quanh, tôi thấy những khuôn mặt lo âu.  Họ đã bỏ lại nhà cửa, nơi chốn sanh nhai, và e sợ khi về tất cả chỉ là tro tàn.  Những khuôn mặt đàn bà ngấn lệ vì kể từ khi bó chân tới giờ, chưa bao giờ phải đi nhiều như vậy.  Lũ trẻ con quá sợ hãi nên không một lời than phiền.

Chúng tôi đi không ngừng nghỉ đến chiều ngày hôm sau.  Con đường mỗi lúc mỗi hẹp và dốc hơn.  Chúng tôi nhìn thấy những cụ già không đủ sức đi tiếp, ngồi xuống luôn không đứng dậy.  Tôi nghe họ gọi với cho con: “ Cứ để bố mẹ lại đây.  Khi nào về thì ghé qua đón.”  Hay,  “ Cứ đi tiếp đi con.  Giỗ tết thì nhớ lấy ngày.”  Cứ mỗi lần như vậy thì tôi nghĩ đến mẹ tôi.  Mẹ tôi phải khập khiễng chống gậy thì làm sao mà đi được.  Liệu bố tôi có bỏ bà lại không? Liệu anh tôi có bỏ bà lại không?

Mỗi bước đi là một lần chân tôi đau nhói y như hồi bó chân.  Thế hãy còn may, tôi thấy những người tuổi tôi hay còn trẻ hơn mà bàn chân đã gẫy nát vì phải đi quá xa.  Họ chỉ biết nằm đó khóc lóc chờ chết.  Nhưng chúng tôi vẫn cứ lầm lũi đi tiếp, không hề nhìn lại, và cố bịt tai nhắm mắt để không nghe, không thấy những khổ đau và buồn rầu.   Khi trời tối sập thì người ta bắt đầu lạc nhau.  Chồng tìm vợ.  Mẹ tìm con.  Người ta vất lại quần áo, đồ gia bảo, bàn thờ, và ngay cả thức ăn thức uống.  

Chúng tôi đã đi bộ được hơn ba mươi sáu tiếng và không còn biết mệt.  Có những tiếng rú thê thảm ở chung quanh.  Những cành cây bắt đầu đóng băng.  Tuyết Hoa mặc áo vải chàm còn tôi trong bộ gấm.  Tôi biết bàn chân tôi chảy máu vì cảm thấy nong nóng trong hài.  Bà mẹ chồng vẫn loạng choạng bước theo.  Bà tuy già nhưng tuổi con chuột nên sức sống rất mãnh liệt.  

Lối đi hẹp lại, còn không tới một phần ba mét.  Bên phải là sườn núi đứng sừng sững.  Chúng tôi xếp hàng một trèo lên.  Bên trái là một màu đen sâu thăm thẳm, nhìn xuống không thấy đáy.  Chúng tôi dọ dẫm đi theo một gia đình gồm người cha, người mẹ, và ba đứa con.  Người mẹ dẵm phải hòn đá, trượt chân rơi xuống vực thẳm không đáy.  Tiếng thét to và dài, rồi thình lình chấm dứt.  

Cuối cùng thì chúng tôi đã đến một vùng hình trôn bát.  Ngọn núi in bóng trên bầu trời chung quanh.  Người ta bắt đầu chụm lửa, vì ở địa thế này, quân Thái Bình ở dưới không thể thấy ánh lửa được.  Trong ánh lửa bập bùng, tôi thấy những vẻ mặt đờ đẫn không hồn của lũ con nít.  Có thể chúng đã mất ông mất bà, hay mất cha mất mẹ không chừng.   Tuyết Hoa nhận ra ba gia đình quen từ làng Kim Điền đang tụ tập dưới bóng của một cây cổ thụ.  Khi thấy anh đồ tể vác trên vai một bao gạo, họ liền nhích sang một bên nhường chỗ.  Lúc ngồi hơ tay hơ chân gần ngọn lửa thì tay chân tôi cảm thấy nóng bỏng, không phải vì sức nóng mà vì da thịt đã đông cứng giờ bắt đầu tan băng.

Tuyết Hoa và tôi chà xát bàn tay của mấy đứa con rồi trùm một tấm chăn lên người chúng.  Tôi và Tuyết Hoa khoác chung một tấm chăn, bà mẹ chồng thì một mình một chăn.Tấm cuối cùng dành cho anh đồ tể nhưng anh xua tay ra dấu không cần.  Anh ta kéo một người đàn ông trong nhóm ra một bên, thầm thì cái gì đó rồi nói với Tuyết Hoa.
“ Tôi phải đi kiếm thêm củi,”
Tuyết Hoa nắm chặt tay anh lại.  “ Đừng đi.  Đừng bỏ em ở đây.”
“ Không có lửa để sưởi thì không sống qua đêm nay,” anh nói.  “ Tuyết sắp đổ xuống rồi không thấy sao?”  Anh nhẹ nhàng gỡ tay Tuyết Hoa ra.  “ Còn những người trong nhóm đây mà.  Đừng có sợ,” --anh hạ thấp giọng xuống--” nếu cần đẩy họ ra lấy chỗ cho em và bạn em.  Em có thể làm được.”
Dù mệt nhoài nhưng chúng tôi không thể chợp mắt vì đói, vì khát, và vì sợ hãi.  Những người đàn bà--mà sau này tôi mới biết họ là tỷ muội kết nghĩa--bắt đầu hát hò quanh ánh lửa hồng để quên đi nỗi sợ hãi.  Cái buồn cười là mặc dù mẹ chồng tôi rất thông thạo nữ thư, nhưng lại không để tâm với chuyện hát hò.  Bà thích viết một lá thư sao cho bay bướm hay làm một bài thơ hơn cái thú tiêu khiển của hát hò.  Bởi thế nên mấy chị em dâu trong nhà quên hết những bài đồng dao hồi còn bé.  Những bài hát tối hôm ấy nghe quen quen nhưng từ hồi bé giờ mới được nghe lại.  Đó là những bài đồng dao nói về người Dao, về quê hương ban đầu, và về cuộc chiến đấu anh dũng dành lại độc lập.

“ Chúng ta là người Dao,” Liên, một người đàn bà hơn tôi độ mười tuổi, bắt đầu.  “ Ngày xưa, trong khi Bình Vương bị Cao Vương vây khỗn mà không ai tìm ra kế gì thì Bàn Hồ, một con long khuyển rất được Bình Vương yêu quí,  nhảy ra phủ phục xin đi giết Cao Vương.  Bàn Hồ cắn chết Cao Vương, ngoạm đầu mang về báo công.  Giữ lời hứa, Bình Vương gả con gái cho Bàn Hồ và hai vợ chồng về núi Cối Kê, sanh ra mười hai người con, lập ra mười hai họ của người Dao sau này.”

Liễu, một người đàn bà khác, hát tiếp.  “ Họ kéo về lập quốc ở Thiên Gia Động, một vùng đất phì nhiêu và an toàn, vì muốn đến đó phải chui qua nhiều hang động hiểm trở.  Nhưng một thiên đàng địa giới không thể bình yên mãi được.    Đến đời Nguyên, có người bên ngoài tình cờ lọt vào bên trong và gặp người Dao lần đầu.  Thấy ai cũng to béo, ăn mặc sặc sỡ.  Khi nghe thấy, Hoàng Đế liền ra lệnh cho người Dao phải đóng sưu cao thuế nặng.”

Trong khi tuyết bắt đầu lất phất rơi trên tóc, Tuyết Hoa choàng vai tôi và cất giọng hò khúc kế tiếp.  “ Sao phải đóng thuế? Người Dao muốn biết.” Giọng nó run run vì lạnh.  “ Họ đắp lũy đá trên đỉnh núi.  Hoàng Đế phái một đạo quân tới.  Một trận đánh đẫm máu xảy ra.  Nhiều người Dao--già trẻ, lớn bé--đã phải vong mạng.  Giờ biết làm sao? Giờ phải làm gì?  Người tù trưởng bèn chặt sừng trâu làm mười hai khúc rồi chia mỗi nhóm một khúc và bảo họ tản mát để sống còn.”
“ Tản mát để sống còn,” Tất cả chúng tôi lập lại.
“ Đó là lý do tại sao người Dao sống tản mát trong thung lũng, trong núi, và những vùng lân cận.”  Giọng Tuyết Hoa nhỏ dần.

Mai Hoa, người đàn bà trẻ tuổi nhất trong nhóm, hát khúc cuối.  “ Người ta nói rằng năm trăm năm nữa, người Dao từ khắp bốn phương trời, sẽ trở về thạnh động, nối sừng làm một, và xây lại căn nhà xưa.”

Tối hôm ấy chẳng ai ngủ được.







16-  Mùa Đông

Bốn gia đình xúm lại ở tùm húm dưới tàn cây cổ thụ.  Nhưng họa vô đơn chí, chưa năm nào tuyết lại nhiều như vậy.  Lúc nào cũng lạnh, lúc nào cũng đói.  Hơi thở bốc khói tan loãng trong khí núi. Nhà nào cũng dấu kỹ thức ăn, sợ không biết khi nào mới về nhà.  Người ta chết lần chết mòn vì cảm và lạnh.  Chân tôi--cũng như của đa số đàn bà nơi đây--đau nhức dữ dội, nhưng sống chỗ đông người nên phải tháo băng, rửa ráy, và quấn băng trước bao con mắt của đàn ông.  Nhưng riết rồi cũng hết mắc cở, cũng phải phải đi tiêu đi tiểu sau gốc cây và trong lỗ đã đào.  Khác họ chỗ tôi chỉ có một thân một mình, gia đình không có.  Tôi nhớ quay nhớ quắt lũ con và lo cho số phận cả nhà, không biết có đến được Vĩnh Minh bằng an không.  
Cả tháng sau chân tôi mới lành, đi không còn chảy máu.  Sáng nào tôi cũng khoác chăn đi tìm anh chị em nhà tôi, nhưng cả hàng vạn người ở tản mác trên vùng núi đồi bát ngát thì làm sao mà tìm?  Rồi một hôm tôi gặp một nhóm người làng Ca Đàm đang co ro chen chúc dưới một mỏm đá.  Tôi hỏi họ có biết chị Lớn không.
“ Có chứ.” một bà nói gióng lên.
“ Mất liên lạc ngay tối đầu tiên,” một bà khác nói thêm.  “ Có gặp nói chị ấy nhập bọn tụi này.  Còn chỗ cho một gia đình nữa.”
“ Dạ vâng,” tôi nói.  “ Nhưng nếu mấy bà có gặp chị ấy, thì làm ơn nói tôi đang đi tìm.  Tôi là em chị ấy. “
“ Bà là Lỗ thái thái phải không?”
“ Dạ phải.” tôi nói.
“ Hôm trước có người đến tìm bà.”
Tim tôi giật thót lên cổ.  “ Ai vậy? Phải anh tôi không?”
Họ nhìn nhau không nói một lúc, rồi một người có vẻ là thủ lãnh nói.  “ Họ không cho biết danh tánh.  Chỉ biết là có một người trông có vẻ là ông chủ, tướng tá to con, quần áo dầy dép sang trọng.  Tóc xòa trước trán như thế này.”
Chồng tôi.  Chắc chắn là chồng tôi rồi.  
“ Anh ấy nói gì? Anh ấy ở đâu?
“ Chúng tôi cũng không biết nữa, nhưng ông ấy nói sẽ trở lại. “

Nhưng sau một thời gian lùng kiếm chẳng thấy ai đá động đến chuyện này thì tôi nghĩ họ đã bịa chuyện nói cho sướng miệng.  Vài hôm sau trở về tìm họ thì thấy một gia đình khác đã sống ở đó.  Tôi thất thểu trở về trại mà lòng cảm thấy chán nản.  Ai nhìn vào tôi bây giờ thì không thể tin tôi là Lỗ thái thái.  Chiếc áo gấm màu oải hương có thêu hình hoa cúc khéo léo giờ đã trông bẩn thỉu và tả tơi.  Rồi còn dãi dầm nắng mưa và trời lạnh thì không biết mặt mũi tôi giờ này trông tàn tạ đến thế nào.  Bây giờ nghĩ lại thấy mình lúc ấy thật là nông cạn và ngu xuẩn.  Trong khi người ta chết vì đói lạnh thì mình đi lo chuyện phù hoa.

Đến những lúc như vậy mới thấy được cái anh hùng của ông chồng Tuyết Hoa.  Vì quen làm việc hạ tiện nên anh ta không nề hà, việc gì cũng làm, không hề than thở mà cũng chẳng cần lời khen.  Anh ta tuổi dậu--một con gà trống khoẻ mạnh, quả quyết, và can đảm.  Anh có thể đi săn thú rừng, làm lông sạch sẽ, nấu nướng, rồi lột da để làm chăn.  Anh có thể khuân củi, múc nước mà không biết mệt.  Tuyết Hoa thì hãnh diện, và tôi thì biết ơn.  

Nhưng còn bà mẹ chồng thì khỏi nói.  Lúc nào cũng rình mò, lúc nào cũng than thở.  Bà ấy phải ngồi gần đám lửa nhất.  Cái chăn thì giữ khư khư không cho ai rờ tới nhưng của ai hở ra thì ăn cắp, đòi mãi mới trả.  Thức ăn thì dấu trong tay áo, đợi đến khi không ai để ý thì nhét vội vào miệng.  Ông con lại có hiếu và bênh mẹ chằm chặp.  Có lắm lúc anh ta lấy thức ăn của vợ cho mẹ ăn.  Thế là tôi phải xẻ phần ăn mình cho Tuyết Hoa.  Rồi một hôm khi thức ăn cạn sạch, mẹ anh đồ tể tuyên bố không cho thằng Cả ăn nữa.  
“ Cho nó ăn chỉ uổng,” bà nói bô bô.  “ Nó chết thì mọi người đỡ khổ. “
Tôi nhìn thằng nhỏ.  Năm đó nó mười một tuổi, bằng tuổi con trai lớn tôi.  Nó chỉ nhìn bà nội nó bằng một cặp mắt sâu hoẵm, xa vắng.  Nhưng Tuyết Hoa không có một lời nào để bênh vực, mặc dù biết đó là một bản án tử hình cho thằng con trai cả của mình.  Nó chỉ yêu thằng con thứ hai thôi.  Rồi sẽ ăn làm sao, nói làm sao với tổ tiên ông bà? Thế là tôi bắt đầu chia thức ăn cho cả hai mẹ con nó.  Khi thấy vậy, anh đồ tể bợp tai hai mẹ con.
“ Đó là thức ăn của Lỗ thái thái.”
Cả hai chưa kịp phản ứng thì bà mẹ xía vào.  “ Này con.  Sao lại phải cho người dưng nước lã  ăn làm gì?  Phải lo cho ruột thịt trước chớ.”
Nhưng lần này thì anh đồ tể không nghe lời mẹ.
“ Lỗ thái thái là khách.  Nếu tôi cứu sống bà thì sẽ được hậu tạ.”
“ Tiền?” bà mẹ hỏi.
“ Không chỉ tiền không thôi đâu.”
Bà mẹ chưa kịp nói gì thì tôi nói, “Nếu vậy thì tôi phải được phần lớn hơn, bằng không tôi sẽ nói nhà này chẳng coi tôi ra gì cả.”
Tôi nói mà trong bụng cũng run.  Ngộ nhỡ anh ta tống cổ tôi ra khỏi nhóm thì chỉ có nước chết đói.  Nhưng anh không làm vậy.  Kể từ đó, tôi được chia phần nhiều nhất, và tôi có thể chia cho Tuyết Hoa, thằng con cả, và Xuân Nguyệt.  Nhưng mọi người vẫn đói triền miên.  Chúng tôi chỉ còn xương bọc da, nằm yên bất động cả ngày để khỏi phí sức.  

Thằng con cả Tuyết Hoa hễ có dịp là nằm rúc cạnh bên tôi.  Nó không được ai thương nhưng nó đâu có ngu.  Tôi nhớ lần tôi với Tuyết Hoa lên Đền Khưu Phổ, chúng tôi đã cầu có con trai tao nhã và có học.  Và mặc dầu không được học nhưng con người của nó tiềm ẩn những nét thanh lịch.  Tôi bắt đầu đọc miệng những bài học Lỗ đại thúc dậy con tôi cho nó nghe.  “ Tam tài giả, thiên địa nhân. Tam quang giả, nhật nguyệt tinh.  Tam cương giả, quân thần nghĩa.  Phụ tử thân, phu phụ thuận.”  Khi những bài học lóm đã hết thì tôi kể nó nghe truyện về một đứa con thứ hai làm quan rồi về làng, nhưng tôi đổi tình tiết cho phù hợp hoàn cảnh thằng nhỏ.
“ Ngày xưa có một thằng bé con trai đầu lòng,” tôi bắt đầu.  “ Nó sống với bố mẹ, em trai, và em gái.  Thằng em trai sẽ nối nghiệp bố.  Con em gái sẽ đi lấy chồng.  Còn thằng con cả thì chẳng ai ngó ngàng tới, mà có ngó tới thì chỉ có đánh đập.”
Thằng nhỏ nhích người lại gần tôi, nhìn vào mặt tôi.
“ Một hôm nó tìm ra chỗ bố nó để tiền.  Nó lấy một ít dấu và trong túi.  Rồi nó ra chỗ mẹ nó để thức ăn.  Nó nhét đầy bọc rồi không một lời từ giã, nó bỏ nhà ra đi.  Nó bơi qua sông rồi đi dọc theo cánh đồng tìm đường về Quế Lâm.  Nó đi một thân một mình, không bạn bè, không người thân cho đến khi hết tiền lẫn thức ăn thì nó bắt đầu đi ăn xin.”
Thằng bé đỏ mặt vì xấu hổ.  Chắc nó đã nghe người ta nói về thân phận của ông bà ngoại nó.  
“ Có người lấy đó làm nhục,” tôi nói tiếp,” Nhưng nếu không còn cách gì khác, thì đó là cả một sự can đảm. “
Bên kia đám lửa, tiếng bà mẹ chồng nói.  “ Kể chuyện sai bét rồi.”
Tôi làm ngơ không để ý, kể tiếp.
“ Thằng bé lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm Quế Lâm, thấy ai mặc áo sang trọng thì lắng nghe và bắt chước giọng.  Rồi nó gặp ai cũng tìm cách làm quen nói chuyện.  Một hôm có người thấy nó tội nghiệp, mang về làm tiểu đồng.  Ông ta bắt đầu dậy dỗ nó.  Sau nhiều năm nó lên kinh ứng thí và được bổ làm một chức quan nhỏ.  Rồi một hôm nó trở về làng xưa.  Không ai nhận ra nó ngoại trừ con chó vẫy đuôi sủa mừng rỡ.  Sau khi biết nó là ai thì bố mẹ nó cúi xuống lạy và chẳng bao lâu bắt đầu xin xỏ cái này cái nọ.  Vị quan nhớ lại ngày xưa họ đối xử với ông tệ bạc như thế nào, và rồi ông lên kiệu trở về Quế Lâm, lấy vợ có con, và sống một đời hạnh phúc. ”


Vì nhớ con nên tôi hay nhìn ngắm con của Tuyết hoa.  Ở nhà tôi, thằng lớn đã ra vẻ anh cả, đầy quyền uy và tương lai sáng lạn.  Nhà này thì thằng cả không bằng ai và chẳng ai thương nó.  Thế nhưng sao tôi thấy nó giống tính lão đồng tôi nhất.  Tính nó dịu dàng và tế nhị.  Có lẽ chính vì giống mình nên Tuyết Hoa không thương nó.  

Thằng hai của tôi ngoan ngoãn và thông minh nhưng phải cái không có óc cầu tiến của anh nó.  Tôi nghĩ nó sẽ lấy vợ, có con, làm dưới quyền anh nó, và ở chung với vợ chồng tôi suốt đời.  Thằng thứ hai của Tuyết Hoa, trái lại, là ngồi sao sáng của gia đình.  Nó có tướng giống bố, lùn và mập, bắp tay bắp chân vạm vỡ.  Nó chẳng biết sợ hãi, đói lạnh là gì.  Nó theo bố nó như hình với bóng.  Đi săn bố nó cũng cho nó đi theo.  Khi mang về xác thú, nó ngồi xổm cạnh bố học cách xả thịt để nấu nướng.  Điều này cho biết thêm về con người Tuyết Hoa. Chồng Tuyết Hoa có thể thô lậu, hôi hám và không xứng, nhưng nhìn lối nó thương thằng con là đủ biết yêu chồng như thế nào rồi.  

Mặt mũi và tính tình Xuân Nguyệt khác hẳn con gái tôi.  Bích Ngọc giống y hệt bên đàng ngoại nên tôi khó tính với nó hơn.  Gia đình tôi khá giả nên nó sẽ dễ lấy chồng.  Tôi nghĩ Bích Ngọc sẽ là người vợ tốt, nhưng Xuân Nguyệt sẽ là người vợ tuyệt vời, nếu có cơ hội như tôi đã có.  

Càng nghĩ càng thấy nhớ gia đình.
May mà còn có Tuyết Hoa.  Nhưng biết gì không? Ngay cả trong lúc này, trong hoàn cảnh này, chỗ nào cũng có người, vậy mà anh đồ tể vẫn muốn ân ái với lão đồng của tôi.  Giữa trời lạnh trống toang, bên cạnh đám lửa, họ trùm chăn làm việc.  Chúng tôi ngoảnh mặt làm ngơ nhưng đâu thể bịt tai được.  May sao anh ta không ồn ào, chỉ thỉnh thoảng hộc lên một tiếng.  Có lần tôi nghe âm thanh phát ra do khoái cảm--không phải của anh đồ tể mà là của lão đồng tôi.  
Làm ăn xong, Tuyết Hoa ra ngồi cạnh, choàng tay ngang vai tôi như thời còn con gái.  Tôi ngửi thấy mùi ân ái phảng phất trên người nó, nhưng trời rét căm căm nên ngồi gần vẫn thấy thích.  

Hành lạc đều đặn như vậy thì dĩ nhiên nó lại có bầu lại.  Tôi nói nhiều khi trời lạnh và không đủ dinh dưỡng cũng có thể là người ta tắt kinh.
“ Tôi có bầu nhiều lần rồi,” nó nói.  “ Rành quá rồi.”
“ Thế thì tôi chúc bạn có con trai.”
“ Lần này”--đôi mắt nó long lanh vẻ sung sướng và tự tin--” Tôi sẽ có con trai.”
“ Con trai là của trời cho.  Bạn phải hãnh diện với thằng con lớn.”
“ Phải rồi,” nó trả lời nhẹ hểu, rồi nói thêm.  “ Bạn có vẻ cưng thằng đó đặc biệt.  Muốn nó về làm con rể không?”
Tôi thương nó nhưng về làm con rể thì không được.
“ Gia đình mình không hợp trai-gái,” tôi nói.  Tôi có thiếu nợ Tuyết Hoa thật nhưng đâu thể con gái tôi hạ mình như thế.  “ Kết hợp tỉ muội giữa hai đứa con gái của mình quan trọng hơn, đúng không?”
“ Dĩ nhiên.  Bạn nói chí phải, “ Tuyết Hoa nói một cách ngây thơ, không hiểu ý tôi.  “ Khi nào về nhà sẽ hẹn gặp dì Vương.  Rồi đền Khưu Phổ, rồi mua quạt và ăn khoai rán.”
“ Mình có thể hẹn nhau ở Xá Hạ.  Nếu cẩn thận thì có thể quan sát chúng.”
“ Theo dõi hả?” Tuyết Hoa hỏi, ngạc nhiên.  Khi tôi mỉm cười thì nó lăn ra cười.  “ Vậy mà tôi cứ tưởng tôi là kẻ mưu mô thủ đọan.  Ai ngờ đâu.”

Mặc dù những ngày tháng đó thiếu thốn thảm hại, nhưng ngồi tính chuyện cho con gái giúp chúng tôi tìm lại hy vọng.  Chúng tôi mừng sinh nhật thứ năm của thằng hai.  Thằng nhỏ thật là ngộ nghĩnh.  Nhìn hai bố con nó khiến ta liên tưởng đến hai con lợn ủn ỉn, sục xạo kiếm ăn, người dính đầy bùn đầy đất, cả hai thích đi chung với nhau.  Thằng con lớn bằng lòng ngồi với đàn bà.  Vì tôi mà bây giờ Tuyết Hoa cũng bắt đầu để ý đến nó.  Nhìn nó nhắc nhớ tôi đến hình ảnh của mẹ nó ngày xưa--dễ thương, thành thật, và thông minh.  Tuyết Hoa cũng có vẻ thích nó hơn xưa.  

Một hôm tôi đang dạy nó một bài hát thì Tuyết Hoa nói, “ Đừng dạy nó bài hát con gái.  Mình hồi bé có học thi phú.  Bồ cũng vậy.  Hãy dạy nó học thơ. “
Thực ra vốn liếng thi tứ của hai đứa tôi cũng chẳng được bao nhiêu nhưng thằng bé như nấm khô mà thả vào nước sôi.  Có bao nhiêu là nó hấp thụ hết sạch.  Ngoảnh đi ngoảnh lại nó đã thuộc những bài thơ Đường mà chúng tôi đã học lóm được khi còn bé.  Và lần đầu tiên tôi thấy được vẻ hãnh diện hiện ra trong nét mặt Tuyết Hoa.

Rồi vào một đêm lạnh cóng, sau khi chúng tôi đã ở trên đó độ mười tuần, thằng con thứ hai Tuyết Hoa cuộn tròn đi ngủ cạnh đống lửa, để rồi không bao giờ thức dậy.  Trong ánh sáng của buổi sớm mai, sương giá đã phủ kín người nó và mặt nó một màu xanh băng giá.  Tiếng rú thê thảm của Tuyết Hoa vang vọng núi rừng.  Gã đồ tể  ôm thằng bé trong vòng tay, nước mắt chảy thành giòng xuống má.  Gã cứ ôm chặt xác con, không thèm nghe bất cứ một ai. Thỉnh thoảng gã ngước mặt nhìn trời, nghiến răng nguyền rủa.  Gã ngồi như vậy hai ngày liên tục trong khi lũ đàn bà cất tiếng hát bi ai.  Đến ngày thứ ba gã ôm con phóng thẳng vào rừng, ngôi rừng mà hai bố con từng cùng nhau thám hiểm trước đây.  Hai ngày sau gã trở lại tay không.  Khi Tuyết Hoa hỏi con chôn ở đâu thì gã đánh nàng mạnh đến nỗi bắn người ra xa và té cái bịch xuống tuyết.  

Gã tiếp tục đánh cho đến khi Tuyết Hoa xảy thai, máu đen tuôn ra ào ạt, nhuộm loang cả con dốc tuyết.  Chúng tôi chỉ biết cố chăm sóc cho Tuyết Hoa--lột quần ra rồi dùng tuyết để giặt, lau chùi đùi háng, và lấy bông gòn trong chăn để cầm tạm dòng nước hôi hám vẫn ồng ộc chảy ra giữa đùi--mà không dám nhìn hay nói gì với hắn.  

Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ Tuyết Hoa sống được kể cũng là phép lạ.  Trong hai tuần cuối cùng sống trên núi, nó đã nhận lãn không biết bao nhiêu trận đòn thù.  Người nó suy nhược vì mất máu.  Thân thể nó bầm giập vì những trận đòn tàn bạo mỗi ngày.  Sao tôi không cản?  Tôi là Lỗ thái thái mà.  Nhưng hắn khoẻ như trâu mà tính tình lại cục súc.  Dù là một người đàn bà có địa vị nhưng tôi vẫn chỉ là một người đàn bà không nơi nương tựa ở giữ chốn rừng hoang.

Tuyết Hoa không ăn không ngủ, tối ngày chỉ ngồi bó gối cạnh đống lửa.  Rồi nó đi lang thang như trong cơn mộng du vào trong núi.  Tôi cứ lẽo đẽo đi theo không nói tiếng nào.  Tôi chỉ sợ nó quẩn trí rồi lao đầu xuống vực thẳm.  Rồi đến ngày thứ mười một, trong khi đang đứng ở mỏm núi chênh vênh thì nó mở miệng nói.  “ Tôi xẩy thai năm lần.  Lần nào chồng cũng đổ tại tôi.  Lần nào cũng thượng cẳng chân hạ cẳng tay.”   

Có nghĩa là nó đã bị chồng đánh đập từ hồi mới về nhà chồng.  Mặc dù đánh vợ là chuyện thông thường và được chấp nhận xứ tôi, nhưng tôi giận là nó không hề nói tôi nghe, đồng thời cũng cảm thấy hốn hận vì mình đã không nhận ra những dấu hiệu ngược đãi phải có.
“ Tuyết Hoa--”
“ Đừng.  Nghe đây.  Chồng tôi không phải là người xấu.”
“ Hắn đối xử với bạn thua con vật--”
“ Bách Hợp,” nó chặn tôi lại.  “ Anh ấy là chồng tôi.  Tôi muốn chết lâu rồi nhưng chưa có dịp.”
“ Đừng nói nhảm.”
Nó làm bộ không nghe. “ Bạn chắc chẳng bao giờ nghĩ đến số phận.  Tôi thì nghĩ đến mỗi ngày.  Phải chi mẹ tôi không lấy cha tôi.  Phải chi cha tôi đừng hút sách.  Phải chi cha mẹ tôi không gả tôi cho anh đồ tể.  Phải chi tôi sanh ra làm con trai.  Bách Hợp ơi, bạn không thể tưởng tượng được tôi xấu hổ vì hoàn cảnh tôi đến mức nào…”
“ Tôi không bao giờ---”
“ Kể từ lần bạn đến nhà tôi thì tôi đã thấy ánh mắt thương hại của bạn.” Nó lắc đầu không cho tôi nói.  “ Đừng chối.  Nghe đây.”  Nó ngừng lại một lúc trước khi tiếp tục.  “ Hoàn cảnh tôi coi vậy nhưng chưa đến nỗi nào.  Mẹ tôi mới là tội.  Tôi nhớ hồi đó, mẹ tôi khóc tối ngày.  Chắc bà cũng muốn chết quách cho xong nhưng lại không muốn bỏ con ở lại bơ vơ.  Rồi sau khi tôi lấy chồng, bà cũng không bỏ bố tôi.  Bà theo bố tôi đi ăn xin.  Không biết giờ này lưu lạc đến đâu, còn sống hay đã chết bờ chết bụi chỗ nào rồi.  Nhưng có điều chắc chắn là bà sẽ không chịu chết trước chồng.  Bạn biết không, có những cái về đàn ông mà không ai dậy mình.   Mình có sướng thì chồng mới sướng.  Mà sướng hay không  ăn thua nơi mình.”
“ Tôi là lão đồng của bạn.  Không phải che đậy.”
“ Bách Hợp,” Giọng nó nghe như có chút thương hại trong đó.  “ Bạn có đủ hết nhưng bạn không có gì hết.  Vợ chồng tôi ăn nằm chẳng kiêng cữ gì cả.  Chúng tôi muốn thêm con trai nhưng chỉ lòi ra con gái. “
“ Thì số nó không sống được.  Cứ cố gắng lên---”
“ Bạn nói kiểu đó thì với tôi chỉ tai này qua tai kia, chẳng được cái gì cả.  Thôi đi về đi. Trông bạn có vẻ lạnh.  Ngoài ra tôi có chuyện muốn nhờ bạn.  Tôi muốn bạn giúp tôi viết cái này.” Nó thò tai vào tay áo rút ra cái quạt.  “ Tôi sợ lũ loạn quân đốt nhà nên mang nó theo.”

Khi về trại chúng tôi kiếm cách làm bút và mực.  Mực làm từ than củi trộn với nước rồi nấu với rễ cây.  Dĩ nhiên màu không đen như mực thật nhưng cũng dùng được.  Còn bút thì dùng tre vót nhọn.  Rồi chúng tôi thay phiên nhau ghi lại những sự kiện đã xảy ra trên núi rồi Tuyết Hoa khép quạt và nhét lại trong tay áo.  

Tối hôm ấy gã đồ tể không đánh mà đè lão đồng của tôi ra hành lạc.  Sau đó nó quấn chăn ra ngồi cạnh tôi bên đống lửa.  Khi bắt đầu gờ gờ buồn ngủ, nó thủ thỉ trong tai tôi, “ Ảnh yêu tôi theo kiểu của ảnh.   Rồi bồ coi, mọi chuyện sẽ đâu vào đó.”  Phải rồi, tôi nghĩ, cho đến lần sau khi hắn lại nổi đóa và trút cơn giận lên đầu người bạn khả ái của tôi.



Hôm sau có người cho biết đã yên ổn để về làng.  Trên đường về, chúng tôi đi ngang những xác người để lại trên đường chạy trốn.  Xác đàn ông, đàn bà, trẻ con--tất cả đã rữa nát, xương trắng phản chiếu ánh mặt trời.  Lâu lâu lại nghe thấy tiếng khóc sụt sùi hối hận khi nhận ra xác người thân.  Gã đồ tể cõng mẹ trên lưng.  Có lần Tuyết Hoa chợt khựng lại thấy cảnh một người mẹ gói xác con để mang về chôn cất.  Gã đồ tể dừng lại, thả mẹ xuống, cầm tay Tuyết Hoa.  “ Cố đi thêm một khúc nữa,” hắn nài nỉ .  “ Sắp tới xe rồi.  Tôi sẽ kéo mình về nhà.  “ Khi Tuyết Hoa vẫn nhìn chằm chằm vào người đàn bà ôm xác con, hắn nói thêm,” Mùa xuân anh sẽ trở lại mang xương con về.  Anh hứa.”
Tuyết Hoa thẳng người, cố bước qua một bên để tránh người đàn bà và cái gói tí teo.  

Khi về tới làng thì chúng tôi quên hết đau đớn, mệt mỏi, đói khát.  Kim Điền trông không có gì thay đổi.  Tôi dìu mẹ chồng gã đồ tể vào nhà.  Tôi muốn đi bộ về nhà.  Đã đi một chặng đường dài dăng dẳng, thêm tí nữa có sao, nhưng gã đồ tể đã ba chân bốn cẳng chạy đi báo chồng tôi.
Hắn vừa ra khỏi nhà thì Tuyết Hoa lôi sềnh sệnh tôi lên gác.  Nó mở rương lấy ra một cái áo khoác màu xanh thêu hình đám mây đưa tôi.  “ Này thay cái này vào trước khi chồng đến.”

Tôi chỉ thấy Tuyết Hoa và mọi người trông thảm hại mà quên đi chính mình.  Chiếc áo gấm màu oải hương tôi đã mặc ba tháng trường liên tiếp.  Còn mặt mũi tôi thì bùn bám đen thủi đen thui.  Tôi lau vội mặt mũi, tay chân, nách háng.  Còn Tuyết Hoa cố chải mái tóc rối bù rồi lấy một tấm khăn sạch quấn đầu lại.  Vừa lúc đó có tiếng vó ngựa và bánh xe kêu cút kít lại gần.  Nó vội vàng cài nốt mấy cái cúc trên ngực cho tôi.
“ Đẹp gái rồi,” nó nói.
Trước mặt tôi là người mà tôi yêu hơn cái gì hết.  Tôi chợt nhớ nó nói tôi thương hại nó.  Tôi không thể đi mà không giải thích.
“ Tôi chưa bao giờ nghĩ bạn”--tôi cố tìm lời cho khéo nhưng không ra--- thua kém tôi.”
Nó mỉm cười.  Tim tôi thắt lại.  Và trước khi tôi có thể nói gì thêm thì nghe thấy tiếng chồng tôi gọi to:  “ Bách Hợp.  Bách Hợp.”
Và tôi chạy---phải, chạy ù--xuống nhà, ra ngoài.  Khi thấy chàng, tôi phủ phục xuống chân.  Chàng nhấc tôi lên và ôm tôi vào lòng.
“ Bách Hợp, Bách Hợp…” rồi chàng hôn tôi tới tấp mặc cho mọi người đứng nhìn.
“ Đại Lãng…” Tôi chưa bao giờ gọi tên chàng ra miệng.
Chàng nắm vai tôi đẩy ra để nhìn rõ mặt.  Những giọt nước mắt còn đọng lại trong khoé mắt của chàng; rồi chàng lại kéo tôi vào người, ôm chặt làm tôi nín thở.
“ Anh phải cho mọi người ra khỏi Tùng Khẩu,” chàng giải thích.  “ Rôi anh phải đưa con đến chỗ bình yên trước…”

Chồng tôi hậu tạ gã đồ tể.  Tuyết Hoa và tôi ôm nhau.  Nó nói tôi mang quạt về nhưng tôi muốn nó giữ.  Tôi hứa con trai Tuyết Hoa sẽ gửi sách vở để học viết chữ Hán.  Cuối cùng tôi cúi xuống nói với con gái Tuyết Hoa.  “ Cô sẽ gặp con lại trong một ngày gần đây.”  Rồi tôi lên xe và chồng tôi đánh ngựa chạy đi.  Tôi nhìn lại, vẫy tay chào, rồi quay về hướng Tùng Khẩu--hướng nhà tôi, gia đình tôi, cuộc đời tôi.




17-  Lá Thư Lăng Mạ

Đi khắp huyện, đâu đâu cũng thấy người ta cố làm lại cuộc đời.  Kẻ có sống sót thì cũng đã trải qua bao cơn bỉ cực, hết nạn dịch đến loạn lạc.  Tuy tinh thần cạn kiệt vì sự mất mát quá lớn, nhưng còn sống vẫn là may.  Người ta bắt đầu ăn uống mập mạp trở lại.  Đàn ông ra ruộng, con trai đi học, và đàn bà con gái trở lại với công việc thêu thùa.  Người ta lại trông về tương lai, hăm hở với cái vận may của mình.

Hồi xưa, thỉnh thoảng tôi hay thắc mắc về cái thế giới bên ngoài của đàn ông.  Giờ thì thề độc sẽ chẳng thèm léo hánh tới.  Đời tôi phải sống trên gác phượng.  Thấy mặt em dâu tôi sung sướng và mong ngóng đến những buổi chiều cùng nhau thêu thùa, trò chuyện.  Nhưng không có cái gì thể sánh được với nỗi vui mừng khi gặp lại con cái.  Ba tháng là một thời gian dài đăng đẳng, cho cả tôi lẫn chúng.  Chúng nó đã lớn và thay đổi hết rồi.  Thằng con lớn tôi năm nay mười hai.  Nó học hành rất chăm chỉ.  Nó đã nhận thức được là, tất cả các sĩ tử, không cần biết ở đâu, nói thổ âm nào, đều học cùng sách, thi cùng nơi để đâu đâu cũng trung nghĩa, chính trực, và nhất trí.   Ngay cả những nơi hẻo lánh như vùng tôi, thì các quan huyện--tất cả  đều học giống nhau--giúp dân hiểu thấu lẽ quần thần.  Nếu cứ đà này thì một ngày nó cũng sẽ vào kinh ứng thí.  

Năm ấy chúng tôi gặp nhau thường xuyên hơn thời con gái.  Mấy ông chồng không còn cấm cản, mặc dù giặc giã vẫn nổi lên rải rác đó đây.  Sau những chuyện đã xảy ra, chồng tôi có vẻ tin tưởng gã đồ tể hơn, còn hắn thì lại khuyến khích vợ sang tôi chơi, vì mỗi lần trở về thể nào cũng có quà cáp, sách vở, và tiền bạc.  Khi đến thăm nhau thì chúng tôi ngủ chung giường, còn mấy ông chồng đi chỗ khác chơi.  Chồng tôi mà còn vậy thì sao gã đồ tể có thể phản đối được.  Mà họ có muốn cấm cản--những cuộc viếng thăm, ngủ chung, và thủ thỉ tâm sự-- cũng chẳng được.  Chúng tôi chẳng sợ gì hết.  “  Nghe thì cứ nghe, mà làm thì vẫn làm.”

Hai đứa tôi vẫn hẹn nhau ở Khưu Phổ mỗi kỳ lễ hội.   Rồi lại về quê thăm chú thím.  Chú thím đã tốt lành cả đời nên ai cũng yêu quí và kính trọng.  Thím giờ có một lũ “cháu” quấn quít yêu thương.  Còn chú thì sẵn sàng cho ý kiến anh Cả trong việc đồng áng và sổ sách.  Không ai ngờ được hậu vận của chú thím tốt như vậy.

Năm đó hai đứa tôi dâng lên Đền Khưu Phổ lời cảm tạ chân thành và sâu xa  đặc biệt nhất.  Chúng tôi cúng vái tạ ơn vì đã sống qua mùa đông, rồi cùng nắm tay nhau đến hàng khoai rán.  Chúng tôi vừa ăn vừa bàn chuyện tương lai của hai đứa con gái và cách bó chân thế nào để có được cặp gót sen vàng toàn hảo.  Về đến nhà, chúng tôi làm băng quấn, mua thuốc bắc, thêu hài nhỏ để dâng lên bàn thờ Quan Âm, làm bánh trôi để dâng lên Xử Nữ Chân Nhỏ, và cho con gái ăn bánh nhân đậu để mềm chân.  Chúng tôi cũng vấn kế riêng với bà Vương, và khi hai đứa gặp lại, chúng tôi kể chuyện nhau nghe, và lăn ra cười vì dì Vương của nó vẫn thế, mặt vẫn trét phấn, tính tình vẫn mưu mô.  

Ngay cả bây giờ, khi nghĩ lại những tháng ngày mùa xuân và mùa hè đó, tôi thấy mình lúc ấy thật hạnh phúc, vô tư lự.  Tôi có gia đình, tôi có lão đồng.  Tuyết Hoa thì không.  Nó không lấy lại được cân đã mất.  Nó ăn cho có lệ--vài hạt cơm, mấy miếng rau--và chỉ thích uống trà.  Da nó lại tái mét, còn má thì hõm lại.  Khi nó đến Tùng Khẩu và tôi đề nghị đi thăm bạn cũ thì nó từ chối lịch sự, “ Họ chẳng muốn gặp mình đâu” Hay “ Họ không nhớ mình đâu.”  Nài nì mãi thì nó hứa sang năm sẽ cùng tôi tham dự lễ Ngồi Hát cho một cô họ Lỗ ở Tùng Khẩu, chị em họ xa của Tuyết Hoa, và cũng là hàng xóm của tôi.  

Những buổi chiều, khi tôi thêu thùa thì Tuyết Hoa nhìn ra song cửa mà hồn để đâu đâu.  Giống như thể đã đâm đầu nhảy xuống vực thẳm, không để lại một tiếng động nào, trong cái ngày cuối cùng ở trên núi.  Chồng tôi đã nhiều lần cảnh cáo.  “ Em là người có nhiều nghị lực,” chàng nói một đêm sau khi Tuyết Hoa đã trở về Kim Điền.  “ Từ khi lên núi trở về, em đã làm anh hãnh diện với cách cai quản gia đình và làm gương cho phụ nữ làng ta.  Nhưng em--nói ra em đừng giận--đã thiếu khách quan đối với lão đồng của mình.  Cô ta không phải cái gì cũng như em.  Biết đâu chuyện xảy ra mùa đông vừa rồi đã vượt quá sức chịu đựng của cô ta.  Anh không biết nhiều về cô ta, nhưng rõ ràng là cô ta đang cố can đảm để che dấu một hoàn cảnh không ra gì.  Không phải ai cũng như chồng em đâu.”

Điều chàng nói làm tôi mắc cở hết sức.  Không, nói vậy là chưa chính xác.  Tôi hơi khó chịu vì chàng đã xía vào chuyện đàn bà.  Phận làm vợ nên tôi không dám cãi, nhưng trong bụng tôi nghĩ phải tìm cách cho thấy là tôi đúng, chàng sai.  Và vì thế khi Tuyết Hoa đến lần sau, tôi đã để ý và thực sự lắng nghe.   Cuộc đời nó rõ ràng càng ngày càng đi xuống.  Mẹ chồng bớt khẩu phần gạo còn một phần ba, chỉ đủ ăn qua ngày.
“ Tôi chỉ ăn cháo trắng,” nó nói, “ Cũng chẳng sao.  Sao hồi này không thấy đói.”
Cái tệ là gã đồ tể vẫn không ngừng đánh đập.
“ Bạn nói hắn hết rồi mà,” Tôi chống chế vì không muốn chấp nhận cái thực tế mà chồng tôi đã thấy rõ.
“ Ổng đánh thì làm gì được bây giờ? Tôi đâu đánh lại ổng.” Tuyết Hoa ngồi đối diện tôi,  mảnh vải thêu vắt ngang đùi trông bèo nhèo như da đậu phụ.
“ Sao bồ không nói?”
Nó hỏi ngược lại.  “ Có nói thì làm được gì?”
“ Người ta nói nhân định thắng thiên,” tôi nói.  “ Tôi làm được thì bồ làm được.”
Nó nhìn tôi bằng một ánh mắt chịu đựng.
“ Có xẩy ra thường không?” tôi hỏi, cố giữ vẻ bình tĩnh nhưng tức là chồng nó vẫn chứng nào tật nấy, giận vì nó quá thụ động, và cảm thấy bị tổn thương vì bạn mình lại không thố lộ với mình.
“ Từ hồi trên núi về, con người ta thay đổi.  Ai cũng thay đổi.  Bồ có thấy vậy không?”
“ Có đánh thường không?”  Tôi hỏi tới.
“ Tôi đã không chu toàn bổn phận làm vợ---”
Có nghĩa là vẫn đánh đập đều đều.
“ Tôi muốn bạn về ở với tôi.”  tôi nói.
“ Không tội nào nặng bằng tội bỏ chồng,” nó trả lời.  “ Bồ biết điều này mà.”
Tôi biết. Đó là một tội chồng có quyền giết được.
“ Hơn nữa,” Tuyết Hoa nói tiếp, “ Tôi làm gì thì làm chứ không thể bỏ con được.  Con trai tôi cần có tôi bảo vệ.”
“ Dùng xác mình làm lá chắn hả?” tôi hỏi.

Bây giờ nhìn lại mới thấy mình đã tỏ ra thiếu kiên nhẫn với Tuyết Hoa.  Mỗi lần không biết nói gì khi thấy lão đồng khổ sở, tôi lại ép nó tuân theo truyền thống đàn bà để đối phó với bất hạnh.  Lần này tôi đi thêm một bước nữa bằng cách phát động một chiến dịch giúp nó dành lại
quyền điều khiển anh chồng tuổi dậu.  Nó phải cố có bầu lại, phải cầu nguyện nhiều hơn, phải ăn uống đàng hoàng, phải đi khám ông lang để may ra có được con trai.  

Đến lễ Vu Lan rằm tháng Bảy thì tôi đã đưa ra một lô đề nghị với Tuyết Hoa để may ra tình hình có thể dễ thở hơn.  Sao không cố thành người vợ tốt hơn? Sao không làm chồng hạnh phúc? Sao không bẹo cho má thêm hồng? Sao không ăn nhiều để khoẻ mạnh hơn? Sao không về nhà, dập đầu lạy mẹ chồng, nấu ăn, khâu vá, và hát cho bà để bà an hưởng tuổi già?  Sao không cố gắng hơn? Tôi tưởng mình đã cho những lời khuyên thiết thực, nhưng vì không đứng trong hoàn cảnh nên không hiểu mối quan tâm cùng lo âu của Tuyết Hoa.  Tôi tưởng mình là Lỗ thái thái nên cái gì nói ra là phải đúng.

Hết chuyện làm ở nhà rồi, tôi quay ra hỏi về lúc nó đến thăm.  Hỏi nó có vui khi ở cạnh bên tôi không? Có thích cái áo gấm tôi tặng không? Có mang quà biết ơn của họ Lỗ về cho chồng để hắn hài lòng không? Có biết ơn tôi đã mướn thầy dạy đọc dạy viết cho mấy thằng bé cùng trang lứa với con trai nó ở Kim Điền không? Có biết là nghĩa lão đồng giữa hai đứa con gái sẽ mặc nhiên thay đổi cuộc đời Xuân Nguyệt như đã thay đổi cuộc đời của tôi không?

Nếu thực sự yêu tôi sao không bắt chước như tôi--sao không khoác lên người chiếc áo choàng
qui ước để bảo vệ phụ nữ--để cho đời đỡ khổ?  Mỗi lần chất vấn thì nó chỉ thở dài hay gật đầu.  Mà nó càng vậy thì tôi càng sốt ruột.   Tôi tấn công tới tấp cho tới khi nó chịu thua và hứa sẽ làm điều tôi nói.  Nhưng nó nói mà chẳng làm.  Tôi nào có biết là con ngựa ngang tàng Tuyết Hoa của thời thơ ấu giờ đây đã mệt mỏi chán nản.  Tôi cứng đầu, tưởng mình có thể chữa được con ngựa què.  

Đời tôi thay đổi hoàn toàn kể từ rằm tháng Tám năm Hàm Phong thứ sáu.  Lễ Trung Thu đã đến.  Vài ngày nữa thì con gái chúng tôi bắt đầu bó chân.  Năm nay mấy mẹ con Tuyết Hoa có hẹn đến nhà tôi ăn Tết Trung Thu, nhưng Bạch Liên, một trong những người đàn bà ở cùng trên núi đến đứng trước cửa.  Tôi mời bà lên gác uống trà.
“ Dạ cám ơn bà,” bà ta nói,” nhưng tôi ghé Tùng Khẩu để thăm gia đình.”
“ Ai chẳng mong gặp lại con gái đã lấy chồng về chơi,” tôi trả lời xã giao.  “ Gia đình chắc mừng lắm.”
“ Tôi cũng thế,” bà nói rồi thọc tay vào cái giỏ đựng đầy bánh trung thu đang đeo trên vai.  “ Bạn ta nhờ tôi tặng bà cái này.” Bà lấy ra một gói mỏng quấn bằng miếng gấm màu men ngọc mà tôi mới cho Tuyết Hoa.  Bạch Liên đưa cho tôi, chúc tôi may mắn, rồi quày quả đi mất.

Cầm vào tay thì biết đó là cái gì rồi, nhưng tôi không hiểu tại sao Tuyết Hoa không đích thân đến mà lại gửi quạt.  Tôi cầm cái gói lên gác và đợi mấy cô em dâu mang bánh trung thu đi biếu bạn trong làng.  Tôi cho con gái đi theo, nói là còn vài ngày nữa còn  ra ngoài được thì cứ đi.  Sau khi mọi người đi hết tôi bắc ghế ngồi cạnh song cửa.  Ánh sáng mờ nhạt len lỏi qua phên cửa in bóng cành lá cây nho trên mặt bàn.   Tôi ngồi yên nhìn cái gói một hồi lâu.  Làm sao biết để mà sợ? Cuối cùng tôi rỡ từ từ miếng lụa xanh cho đến khi cái quạt nằm trần trụi.  Rồi tôi mở từng nếp gấp một.  Tôi thấy một hàng chữ mới nằm cạnh hàng chữ viết bằng bút than đêm trước khi xuống núi.  

“ Đời tôi có quá nhiều nỗi buồn, “ Chữ Tuyết Hoa bao giờ cũng đẹp hơn chữ tôi, những dòng chân muỗi thanh tao như chực tan thành mây khói.  “ Tôi không thể thành con người như bạn muốn.  Bạn sẽ chẳng phải nghe lời tôi than thở nữa.  Ba chị em kết nghĩa đã hứa yêu tôi vô điều kiện.  Hãy viết cho tôi, không phải để khuyên nhủ, mà để nhắc nhở lại những tháng ngày con gái hạnh phúc bên nhau.”  Chỉ vỏn vẹn có vậy thôi.  

Tôi cảm thấy như một thanh kiếm vừa đâm thấu tim.  Bụng tôi thót lại vì ngạc nhiên.  Yêu?
Nó dám đem chuyện yêu đương với lũ chị em kết nghĩa viết trong cái quạt của chúng tôi? Tôi đọc lại, không hiểu.  “ Ba chị em kết nghĩa đã hứa yêu tôi “  Nhưng Tuyết Hoa và tôi đã là lão đồng, một tình yêu vượt trên khoảng cách và thời gian, một gắn bó còn quan trọng hơn hôn nhân vợ chồng.  Chúng tôi đã thệ nguyện thủy chung cho đến chết.  Thế mà giờ này nó phản bội lời hứa để chơi với đám tỉ muội kết nghĩa mới thì không còn gì đau đớn hơn.  Vậy mà còn dám nói vẫn giữ tình bạn thì không thể tưởng tượng được.  Bây giờ chồng tôi có về tuyên bố lấy vợ lẽ cũng không đau đớn bằng.   Mà có phải là tôi không có cơ hội lập nhóm bạn gái có chồng đâu.  Mẹ chồng tôi đã làm không biết bao là áp lực mà tôi vẫn một lòng một dạ với Tuyết Hoa.  Và giờ thì nó đá tôi sang một bên? Cái con này--đứa mà tôi đã yêu dấu, đã trân trọng, đã thệ ước trọn đời -- đâu có thương tôi giống tôi thương nó đâu.  

Tưởng thế đã là quá rồi, nhưng tôi chợt nhận ra ba tỉ muội kết nghĩa chính là những người đàn bà cùng làng đã gặp trên núi.  Tôi nghĩ lại từng chi tiết biến cố mùa Đông vừa qua.  Phải chăng họ đã âm mưu cướp bạn tôi trong đêm hát hò? Phải chăng nó đã mê họ như người chồng mê cô vợ nhỏ trẻ đẹp, dễ thương hơn người vợ chung thủy của mình? Giường có ấm hơn? Da thịt có chắc hơn? Truyện kể mới hơn? Hay nó nhìn vào những khuôn mặt và không thấy chút kì vọng hay trách nhiệm nào?

Chưa nỗi đau nào như nỗi đau này.  Nó đau tàn bạo, đau rách da xẻ thịt, nổ đom đóm mắt, còn hơn đau đẻ.  Và rồi lòng tôi bỗng chuyển biến.  Tôi không còn là con bé phải lòng con Tuyết Hoa mà là Lỗ phu nhân, người mà qui tắc, lễ nghi đã đem lại bình an tâm hồn.  Và bắt lỗi dễ hơn phải đương đầu với những xúc cảm đang sôi sục trào dâng.

Trước giờ vì yêu Tuyết Hoa mà tôi vẫn bỏ qua hết.  Nhưng một khi nhìn vào khuyết điểm thì những hành vi lừa dối phản bội bắt đầu hiện ra rõ rệt hơn.   Tôi nghĩ lại những điều nó đã nói ́dối-- về gia đình, đời sống hôn nhân, và ngay cả những ngược đãi.  Nó không chỉ là một lão đồng thiếu chung thủy mà còn là một người bạn không tốt.   Đã là bạn thì phải thành thật và thẳng thắn.  Hơn thế nữa, trong những tháng vừa qua nó còn lợi dụng tiền bạc và địa vị của tôi để có cơm ăn áo mặc và thân phận tốt hơn cho con gái, vậy mà khi mình giúp đỡ và đề nghị thì nó ngoảnh mặt làm ngơ.  Tôi thấy mình khờ dại và bị lường gạt.

Lạ cái là bỗng dưng nhớ lại mẹ.  Tôi còn nhớ lúc bé chỉ thèm được mẹ yêu.  Tôi tưởng là khi bó chân, bảo gì làm nấy thì được thương, nhưng mẹ đâu có yêu thương gì.  Như Tuyết Hoa, mẹ tôi chỉ nghĩ đến tư lợi.  Thoạt tiên còn giận, nhưng rồi dần dà tôi xa lánh cho đến khi sợi dây tình cảm không còn nữa.  Với Tuyết Hoa tôi cũng phải làm vậy để tự bảo vệ lòng mình.  Không thể để người ta thấy tôi chết dần chết mòn vì nó không yêu tôi nữa.  Tôi phải nén cơn giận vì đàn bà đàng hoàng mà như vậy thì không tốt.  

Tôi gấp quạt cất đi mà không thèm trả lời.  Một tuần lễ trôi qua, tôi không cho con bó chân vào ngày đã ước định.  Một tuần lễ nữa trôi qua.  Bạch Liên lại đến trước cửa, lần này mang theo lá thư mà con Dũng Cang mang đưa tôi trên gác.  Tôi mở lá thư ra đọc.  Nét chữ bay bướm trước đây tưởng như mơn trớn thì giờ không khác nào dao găm đâm vào tim.

“ Sao không thấy bồ viết thư?  Tại ốm đau hay có chuyện may mắn? Tôi bắt đầu bó chân con tôi vào ngày hai-mươi-bốn , giống mình khi xưa.  Bạn có làm cùng ngày không?  Tôi nhìn qua song cửa về hướng bạn.  Hồn tôi bay về phía bạn, lòng tôi sung sướng cho con gái chúng mình.”

Đọc xong tôi châm lửa đốt.  Tôi nhìn tờ giấy cháy xoắn và chữ viết tan theo làn khói.  Trong những ngày kế tiếp--khi thời tiết mát mẻ và tôi bắt đầu thủ tục bó chân con gái-- tôi nhận thêm nhiều lá thư.  Lá nào cũng đốt.

Năm tôi đã băm-ba.  May lắm là sống thêm bẩy năm, quá lắm là mười bẩy năm.  Mối thương tâm này thêm một phút nữa tôi cũng không chịu nổi huống hồ hơn cả năm.  Nỗi đau như xé gan xé ruột nhưng tôi thu hết những can đảm đã giúp tôi vượt qua giai đoạn bó chân, nạn dịch, và mùa đông trên núi.  Tôi bắt đầu cái gọi là cắt bỏ vết đau, mỗi lần nghĩ tới thì lấy mực đen bôi kín, thấy cái gì nhắc nhớ kỷ niệm cũ thì nhắm chặt mắt lại, ngửi thấy thì dí mũi vào hoa hay thêm tỏi vào chảo.  Khi những đụng chạm-- cái nắm tay của con gái, hơi thở của chồng bên tai ban đêm, hay làn gió thoảng mơn trớn da ngực trong lúc tắm làm tôi liên tưởng đến nó-- thì tôi kì cọ cho đến khi sạch hết vết tích.  Tôi như một nhà nông tàn nhẫn, nhổ sạch tàn tích của mùa vụ tốt nhất năm ngoái.  Chỉ như thế tôi mới có thể bảo vệ được con tim của mình.

Khi những kỷ niệm tình yêu của Tuyết Hoa vẫn đeo đuổi dai dẳng, tôi dựng một cái tháp hoa giống như hồi làm cho Diễm Nguyệt.  Tôi phải trừ cái tà khí này, không cho nó ám ảnh dằn vặt tôi bằng những lời hứa suông.   Tôi lục trong giỏ, trong hòm, trong ngăn kéo, trên kệ, tất cả tặng vật Tuyết Hoa đã cho trước giờ để vất đi.   Tôi kiếm những lá thư của cả đời bên nhau mhưng không tìm ra hết.  Không tìm ra cái quạt.  Cái nào tìm ra tôi dán vào tháp hoa; rồi tôi viết một lá thư.

“ Bạn từng hiểu thấu lòng tôi nhưng giờ thì chẳng biết gì cả.  Tôi đốt hết chữ, mong chúng bay lên mây.  Bạn, người đã phản bội và bỏ rơi tôi, không còn trong tim tôi nữa.  Làm ơn, hãy để cho tôi yên.”

Tôi gấp mẩu giấy lại rồi nhét qua khe cửa tí hon trên lầu của gác hoa.  Rồi tôi mồi lửa đốt tháp, châm thêm dầu cho đến khi tất cả những khăn tai, vải thêu, vải dệt đều cháy rụi.

Nhưng hình ảnh của Tuyết Hoa vẫn không ngừng ám ảnh tôi.  Khi bó chân con gái thì như có Tuyết Hoa trong phòng, đặt tay lên vai tôi thì thầm,”  Nhớ đừng để có nếp gấp.  Biểu lộ cho nó thấy tình mẹ,” tôi hát để át giọng.  Có đêm tôi tưởng tượng bàn tay nó đang áp trên má tôi và thế là chẳng ngủ được.  Tôi nằm đó, giận nó, giận mình, tôi ghét bạn, tôi ghét bạn.  Bạn đã phản bội lời hứa.  Bạn phản bội tôi.

Giận cá chém thớt.  Nạn nhân thứ nhất là con gái tôi.  Nạn nhân thứ hai là bà Vương.  Tình mẹ của tôi rất mãnh liệt, và khi bó chân Bích Ngọc thì không ai có thể cẩn thận hơn tôi.  Tôi không những đã kinh nghiệm với cái chết của đứa em mà còn học hỏi rất nhiều từ mẹ chồng cách bó thế nào để tránh nhiễm trùng, bó sai, hay chết.  Tôi trút hết cơn giận vào đôi chân con tôi.  Chưa chi mà nó đã khóc tỉ tê.  Tôi nén giận, bắt nó đi qua đi lại, bó chân nó chặt hơn và mắng mỏ--không, vừa mắng vừa khóc-- dùng những lời mẹ tôi nói khi xưa.  “ Một quí phụ không chấp nhận sự xấu xa.  Muốn đẹp thì phải chịu đau.  Có đau khổ rồi mới tìm thấy được bình yên.  Tôi quấn, tôi cột, nhưng cô là người sẽ hưởng.”

Tôi nói chuyện với những bà khác trong Tùng Khẩu cũng đang cho con bó chân.  “ Mình là hàng xóm cả với nhau.  Có nên cho con kết nghĩa tỉ muội không?”

Chân con gái tôi nhỏ gần bằng chân tôi.  Một hôm bà Vương ghé ngang.  Trông bà vẫn vậy.  Lúc ấy bà ta còn trẻ hơn tôi bây giờ nhiều, có nghĩa là khi mới gặp lần đầu  thì bà chắc trạc độ bốn mươi.  Mẹ tôi và mẹ Tuyết Hoa chết khoảng tuổi đó mà đã coi là thọ rồi.  Và vì thế ở cái tuổi sáu mươi, bà già đã quá tuổi, không phải thoa son trát phấn nữa.  Bà vẫn còn minh mẫn nhưng phải cái là yêu cô cháu quá đỗi.

“ Lỗ phu nhân, lâu quá không gặp,” bà nói sau khi ngồi phịch xuống ghế phòng khách.  Khi thấy tôi không pha trà thết khách thì bà nhìn quanh lo lắng.  “ Chồng bà có nhà không?”
“ Lỗ đại gia chưa về.  Làm gì mà gấp rút thế.  Con gái tôi nào đã đến tuổi cập kê để bà làm mối làm lái.”
Bà Vương vỗ đùi cười khúc khích nhưng im lại khi thấy tôi không hưởng ứng.  “ Bà thừa biết là tôi không đến đây vì chuyện ấy.  Tôi đến đây để bàn chuyện lão đồng.  Chuyện đàn bà ấy mà.”
Tôi dùng móng ngón tay trỏ gõ nhịp trên thành chiếc ghế cẩm lai.  Chính tôi cũng còn nghe thấy to và sóc óc, nhưng vẫn không ngừng.
Bà thọc vào tay áo lấy ra một cái quạt.  “ Tôi mang cái này đến cho con gái bà.  Tôi có thể đưa tận tay nó được không?”
“ Con gái tôi trên gác, nhưng Lỗ đại nhân không cho nó lấy cái gì mà ông ta chưa kiểm soát trước.”
“ Nhưng Lỗ phu nhân,” Bà Vương nói, “ cái này viết bằng nữ thư.”
“ Vậy thì đưa tôi xem.” tôi chìa tay ra.
Bà mối già nói lưỡng lự.  “ Tuyết Hoa---”
“ Không!” Tôi nó hơi gay gắt vì không muốn nghe nhắc đến cái tên đó.  Tôi cố trấn tĩnh rồi nói,
“ Đưa quạt đây.”
Bà đưa tôi một cách ngần ngừ.  Trong đầu tôi đã thủ sẵn một lô bút lông tẩm sẵn mực đen để hễ có ý nghĩ hay kỷ niệm nào nhô lên là bôi đen liền lập tức.  Tôi tưởng tượng đến hình ảnh những lư đồng trong đền thờ tổ, những tảng băng cứng mùa đông, và đống xương phơi khô dưới ánh nắng chang chang để lấy thêm sức mạnh.  Tôi mở chành cái quạt ra.

  “ Nghe nói nhà bạn có người con gái phẩm hạnh đoan chính mà lại còn giỏi nữ công.”

Ngửng lên tôi thấy bà Vương đang nhìn chăm chăm, chờ xem phản ứng thế nào.  Tôi thản nhiên, tỉnh như mặt hồ đêm thanh vắng.
“ Vườn nhà đôi ta, hai nụ hoa nở, sẵn sàng gặp nhau.  Mình sanh cùng năm.  Sao không làm lão đồng? Cùng nhau mình sẽ bay tít tận mây xanh.”

Tôi nghe tiếng Tuyết Hoa qua giòng chữ nắn nót.  Tôi khép quạt, chìa ra nhưng bà Vương không cầm.

“ Thưa bà, có lẽ bà nhầm rồi.  Hai đứa không cùng bát trụ, sanh khác ngày khác tháng, mà chân lại không bó cùng lúc, và---” Tôi đưa tay vu vơ chỉ căn phòng khách---” gia cảnh cũng không đăng đối.”

Mắt bà Vương bỗng sắc lạnh.  “ Bà tưởng tôi không biết à? “ khịt mũi.  “ Bà đoạn tuyệt không một lời giải thích.  Lão đồng của bà đang khóc lóc hoang mang---”
“ Hoang mang? Thế bà có biết nó làm cái gì không?”
“ Thì nói với nó,” bà Vương nói tiếp.  “ Đừng hủy bỏ việc mà hai bà mẹ trẻ đã đồng ý, để hai con bé cùng có tương lai và sung sướng như mẹ chúng.”

Không được.  Bao nhiêu lần bị lừa rồi.  Bao nhiêu lần đau khổ mỗi khi tưởng tượng đến những lời thì thầm và những gần gũi của chúng.  

“ Thưa bà,” tôi nói.  “ Đời nào tôi lại chịu hạ mình cho con gái làm lão đồng với con một anh đồ tể.”

Tôi cố tình nói ác cho bà Vương bỏ cuộc, nhưng bà làm bộ như không nghe thấy, tiếp tục nói.  
“ Tôi còn nhớ cảnh hai cô bé đứng bên thành cầu nhìn xuống phản ảnh dưới nước.  Hai đứa con gái cao giống nhau, chân bằng nhau, can đảm như nhau.  Và hai người đã cùng nhau dâng lời thệ ước sẽ không bao giờ cách biệt, không bao giờ---”

“ Bà thì biết gì mà nói,” tôi nói.  “ Lúc ước thệ có cho kết nghĩa tỉ muội khác không? Về mà hỏi cháu bà thì biết.”

Tôi ném cái quạt vào lòng bà Vương rồi quay ngoắt đi mà lòng thì lạnh tanh như giòng nước sông chảy qua kẽ ngón chân.  Tôi nghe thấy tiếng bà đứng dậy chậm chạp.

“ Tôi sẽ chuyển lời của bà,” bà nói, giọng nói phúc hậu và thông cảm đến khó chịu,  “ Nhưng bà phải biết một điều.  Người như bà rất hiếm.  Điều đó tôi thấy lâu rồi.  Ai cũng thèm được như bà.  Đáng buồn là bà sẽ làm hai người đau khổ.  Trước đây bà chỉ có đôi chân đẹp.  Giờ thì bà không thiếu một thứ gì--kể cả lòng vong ân bội nghĩa và oán hận.”

Bà đi khập khiễng ra kiệu và cho người vác về Kim Điền.
Một năm trôi qua.  Ngày Ngồi Hát của cô hàng xóm mà cũng là chị em họ của Tuyết Hoa sắp tới.  Không biết Tuyết Hoa có đến không.  Tôi mong không phải chạm trán.  
Rồi ngày song thập cũng đến.  Tôi sang nhà, đi lên gác. Cô dâu đẹp theo kiểu ẻo lả.  Tỉ muội kết nghĩa ngồi chung quanh.  Tuyết Hoa ngồi cạnh bà Vương, tóc búi tó kiểu mệnh phụ và đang mặc chiếc áo gấm tôi cho.  Bụng tôi thắt quặn lại, mắt tôi hoa lên như muốn xỉu.  Tôi thở phào nhẹ nhõm khi không thấy Liễu, Liên, hay Mận.  Có họ đây chắc tôi đâm đầu chạy quá.  

Tôi ngồi đối diện hai dì cháu.  Cuộc vui cũng quanh đi quẩn lại mấy trò ca hát, than van, kể truyện, và khôi hài.  Rồi mẹ cô dâu yêu cầu Tuyết Hoa kể chuyện cuộc đời từ khi đi khỏi Tùng Khẩu.  

“ Hôm nay tôi sẽ hát bài Lăng Mạ.” Tuyết Hoa tuyên bố.

Không ngờ nó dám mang chuyện ra bêu xấu trong khi tôi mới chính là nạn nhân? Biết vậy thì tôi đã chuẩn bị một bài trả đũa.

“ Dã kê quang quác, tiếng gáy bay xa,” nó bắt đầu.  Mọi người quay lại khi nghe câu hát mở đầu và Tuyết Hoa bắt đầu hát bằng nhịp hai tùng-chát.  “ Năm ngày tôi đã đốt nhang cầu khấn có đủ can đảm đến đây.  Ba ngày tôi đã cho lá vào nước nấu sôi, để tắm gội và giặt quần áo cho sạch sẽ để gặp bạn.  Tôi đã dốc hết tâm hồn vào lời ca tiếng hát.  Còn bé thì được nuông chiều nhưng lớn lên lại vất vả.  Mất nhà rồi mất cả cha mẹ.  Khổ từ đời mẹ, khổ cả đời con.  Chồng không tử tế mà mẹ chồng thì ác độc.  Sanh bẩy mà chỉ đẻ có ba, giờ chỉ còn hai đứa.  Kiếp trước không biết ăn ở thế nào mà đời này phận số hẩm hiu, không bằng chị bằng em. “

Mấy cô con gái khóc sướt mướt theo đúng truyền thống, còn các bà mẹ thì lắng nghe, chậc lưỡi phụ họa, lắc đầu thương cho thân phận nghiệt ngã của đàn bà, và trầm trồ vì lời ca bóng bẩy.

“ Niềm vui đời tôi chỉ còn có lão đồng,” Tuyết Hoa tiếp tục--tùng chát, tùng chát, tùng chát.  
“ Chúng tôi đã từng nguyện sẽ không bao giờ nặng lời, và trong suốt hai-mươi-bẩy năm trời chúng tôi lúc nào cũng trân trọng lẫn nhau như những nhành nho muôn đời quấn quít.  Nhưng mỗi khi than buồn thì bạn bực mình.  Khi thấy tôi sa sút tinh thần thì bạn bảo, chồng cày bừa còn vợ dệt cửi, rồi nào là tay làm hàm nhai, nào là đức năng thắng số.  Thế giới nào chẳng có người bất hạnh?”
Nhìn lũ đàn bà khóc lóc hu hu mà tôi sững sờ.
“ Sao bạn nỡ ngoảnh mặt làm ngơ?” giọng nó cao và hay.  “ Đôi ta là lão đồng trong tâm, cho dù ngày thường có không gặp nhau. “  Bất chợt nó chuyển sang một đề tài mới.  “ Tại sao bạn gây đau khổ cho con gái tôi? Xuân Nguyệt còn quá bé nên không hiểu, và bạn chẳng hề nói lý do.  Tôi đâu ngờ bạn lại tâm địa như vậy.  Tôi xin bạn đừng quên, tình mình sâu như trời biển.  Đừng để thế hệ phụ nữ thứ ba phải đau khổ. “

Câu sau cùng làm bầu không khí trong phòng bỗng thay đổi.  Phận làm gái vốn dĩ đã khổ lại còn khổ thêm vì bất công xã hội.

Tôi từ từ đứng dậy.  Tôi là Lỗ phu nhân, một người mà cả vùng kính trọng, đúng ra không nên chấp nhất.  Nhưng trong đầu tôi và trong tim tôi, một khúc nhạc đã nện giã liên tục bao nhiêu tháng trời.  

“ Dã kê quang quác, tiếng gáy bay xa,” Tôi bắt đầu trong khi bài Lăng Mạ bắt đầu hiện hình trong đầu.  “ Con mình không thể làm lão đồng được.  Chúng nó không có điểm nào hợp cả.  Người mẹ nào ở vào hoàn cảnh của tôi cũng sẽ làm như vậy.
“ Đã là phụ nữ, ai còn lạ gì với nỗi đắng cay.  Khi còn bé thì được nuôi theo kiểu `thập nữ viết vô`.  Thương gia đình thì có thương nhưng chưa kịp lớn đã mang đi gả bán cho người không quen không biết.  Về nhà chồng thì làm việc quần quật, đầu tắt mặt tối kẻo không người ta coi thường.  Đẻ con thì có khi con chết, có khi mẹ chết.  Chồng chán thì chồng lấy vợ bé.  
Chúng ta ai chẳng từng phải đương đầu với nghịch cảnh--thời tiết quá lạnh hay hạn hán đưa tới mùa màng thất thu.  Chẳng có gì đặc biệt, nhưng sao nàng này lại mang ra bêu riếu.”

Tôi quay sang phía Tuyết Hoa mà nước mắt cay xè, nhưng khi mở miệng hát xong tôi liền hối hận, nhưng chẳng kịp.  “ Bạn và tôi kết nghĩa uyên ương.  Tôi trước sao, sau vậy, một lòng chung thủy, nhưng bạn xa lánh tôi để gần gũi chị em kết nghĩa.  Con gái chỉ gửi quạt cho một người, chứ không phải bạ ai gửi đó.   Ngựa tốt chỉ một yên cương; gái ngoan không phản bội lão đồng.  Bởi bội tín như vậy nên chồng cũng như mẹ chồng, con cái, và ngay cả lão đồng cũng hết thương luôn.  Cứ tối ngày mơ mộng hão huyền làm ai cũng mắc cở.  Nếu chồng tôi có mang vợ bé về thì sẽ gạt tôi qua một bên không thèm ngó ngàng gì tới.  Thế mà tôi cũng như tất cả các phụ nữ có mặt nơi đây cũng sẽ chấp nhận.  Nhưng...nàng mà cũng làm vậy thì…”

Tôi bỗng ngẹn ngào ứa nước mắt, không nói nên lời.  Tôi tìm lời nói để ai cũng hiểu được.  
“ Chồng có bỏ bê thì cũng chẳng có gì lạ--họ là đàn ông, họ có quyền, mình phận đàn bà-- nhưng khó có thể chấp nhận hành động này từ một người đàn bà khác, một người cùng cảnh ngộ, ai mà chịu nổi.”

Tôi nói tiếp, nhắc nhở với mọi người địa vị của tôi, công lao chồng tôi đã mang muối về cho cả làng, rồi lại còn giúp mọi người di tản an toàn trong lúc giặc giã.

“ Cửa nhà tôi sạch,” tôi tuyên bố, rồi quay lại Tuyết Hoa.  “ Còn cửa nhà bạn thì sao?”

Lúc đó bỗng nhiên cơn giận dâng lên ào ạt, và không ai bịt miệng tôi được.  Những lời tôi nói phát xuất từ một chốn tối tăm làm tôi có cảm tưởng như bị dao cắt.  Tôi quá rành Tuyết Hoa và dùng tất cả cái mình biết để hạ nhục nó trước mặt mọi người.  Tôi nói không thiếu một cái gì.  Tôi nhớ cảnh ngày xưa con em tôi tháo gỡ băng chân.   Mỗi lời thoá mạ thốt ra như một lớp băng được gỡ bỏ và tôi cứ nghĩ gì nói đó.  Nhiều năm sau nghĩ lại mới thấy mình sai.  Những mảnh băng đã không bay vào mặt lão đồng tôi mà lại quấn chặt vào chính mình, làm bóp chết mối tình chôn kín trong đáy con tim mà tôi cả đời vẫn hằng mong ước.

“ Người đàn bà này đã lấy hết của hồi môn của mẹ về làm của hồi môn của mình, đến nỗi khi mẹ phải đi ăn xin mà không có lấy một cái chăn để đắp,” tôi nói.  “ Nàng lại không biết phép vệ sinh là gì.  Chồng thì làm công việc ô uế, giết lợn trước sân.  Vợ thì có tài nhưng lại chẳng dạy nữ thư cho gia đình.  Hồi còn con gái đã nói dối về thân phận, đến khi lấy chồng có con vẫn không thành thật.  Nàng không chỉ dối trá với quí bà mà còn dối trá với ngay cả lão đồng của mình. “

Tôi dừng lại đảo mắt nhìn những khuôn mặt chung quanh. “ Con vật động đực cũng có kỳ, còn người này lúc nào cũng phừng phừng lửa dục.  Khi chạy loạn trên núi, nàng chẳng thà hành lạc với chồng hơn gần gũi với bạn.  Nàng nói không biết kiếp trước làm gì nên tội, tôi thì tôi nói là những việc nàng làm kiếp này mới đưa đến số phận ngày hôm nay.”

Tuyết Hoa ngồi đối diện mà hai dòng nước mắt chảy thành hàng trên mặt, nhưng tôi quá giận nên không thấy.  

“Nàng đã phản bội lời thệ nguyện khi còn con gái của mình” tôi kết luận.

Tuyết Hoa hít một hơi thật dài.  “ Bạn bảo tôi bao giờ cũng phải nói thật, nhưng khi tôi nói thì bạn hoặc hiểu lầm hoặc không muốn nghe.  Tôi gặp những chị bạn khác trong làng.  Họ không khinh thường tôi.  Họ không chỉ trích tôi.  Họ không bắt tôi phải trở thành một con người khác.”

Mỗi lời nó nói là một lời xác nhận những điều tôi đã nghi ngờ.

“ Họ không hạ nhục tôi trước mặt kẻ khác,”  Tuyết Hoa nói tiếp.  “ Chúng tôi cùng nhau thêu thùa và an ủi nhau lúc hoạn nạn.  Họ không thương hại tôi.  Họ đến thăm khi tôi không khoẻ và khi tôi cô đơn.  Tôi cần có người bên cạnh mỗi ngày chứ không phải tiện mới đến.  Tôi cần bạn chấp nhận tôi.  Tôi cảm thấy mình như cánh nhạn bay một mình, không tìm thấy bóng bạn đâu…”

Tôi nhắm mắt cố đè nén tình cảm của mình.  Muốn tự vệ thì phải bám víu vào hờn giận như đã làm với mẹ.   Khi mở mắt thì Tuyết Hoa đã đứng dậy, đi loạng choạng về hướng cầu thang.  Trong khi Tuyết Hoa biến mất dần khi đi xuống từng bậc thang thì tôi tự hứa với lòng mình sẽ không bao giờ gặp nàng lại.


Bây giờ mỗi lần nhìn lại, tôi thấy mình đã không tròn nghĩa vụ của một người đàn bà.  Việc nó làm quả không thể tha thứ được, nhưng điều tôi nói ra thật là đê tiện.  Tôi đã để cơn giận, nỗi đau đớn và ước muốn trả thù làm chủ hành động của mình.   Trớ trêu thay, điều làm tôi xấu hổ và hối hận lại chính là cái đó đã giúp tôi trở thành một Lỗ Phu Nhân hoàn toàn hơn.  Tôi đã thành công trong khi hủy diệt người lão đồng của tôi.

Bài hát lăng mạ của tôi trở nên nổi tiếng.  Người ta thêu nó vào khăn tay và lấy ra để răn dạy con gái trước ngày lấy chồng.  Và tai tiếng của Tuyết Hoa ở đâu ai cũng biết.  Nhưng tôi đã trở thành một người què quặt trong tâm hồn.  Làm Lỗ phu nhân mà làm gì nếu tôi không có được tình yêu?























18-  Vào Mây

Tám năm sau, vua Hàm Phong qua đời, vua Đồng Trị lên ngôi, và loạn Thái Bình đã bị dẹp.  Thằng lớn tôi lấy vợ, có con trai.  Nó thi đậu sinh viên phủ huyện rồi ra tỉnh học thi tú tài.  Tuy chồng ít có mặt ở nhà nhưng vợ nó sống thoải mái trên gác.  Con bé có học và đảm đang nội trợ.  Con gái tôi, năm nay mười sáu, vừa đến tuổi cập kê và đã dạm hỏi cho con trai ông hàng gạo ở Quế Lâm.  Gia đình họ Lỗ giàu có, được trọng vọng, và may mắn.  Năm nay tôi bốn mươi hai tuổi, và vẫn cố quên Tuyết Hoa.

Trong một ngày cuối thu, Dũng Cang lên gác nói thầm có người muốn gặp.  Tôi bảo nó đưa khách lên lầu nhưng nó liếc nhìn con dâu, con gái tôi rồi lắc đầu.  Một là con này láo, hai là phải có việc nghiêm trọng.  Tôi chẳng nói chẳng rằng đi xuống nhà.  Khi bước vào phòng khách thì một con bé ăn mặc rách rưới quì sụp xuống lạy.  Ăn mày đến cửa nhà là chuyện thường vì tôi vốn có tiếng thương người.
“ Lỗ phu nhân, chỉ có người là giúp được tôi,” đứa con gái khẩn cầu và bò lồm cồm tới gục đầu xuống chân tôi.
Tôi cúi xuống đặt tay lên vai nó.  “ Đưa tao cái bát tao đong cho đầy gạo.”
“ Dạ con không có bát và cũng không xin gạo.”
“ Thế thì đến đây làm gì?”
Đứa con gái bắt đầu sụt sịt khóc.  Con Dũng Cang vẫn đứng cúi gầm ở bên cạnh.  
“ Đứng dậy.” tôi quát lên.
Đứa con gái ngửng đầu nhìn mặt tôi.  Xuân Nguyệt.  Con gái Tuyết Hoa trông y hệt mẹ nó khi còn trẻ.  Tóc nó tuột trâm, xổ rũ xuống vai, lộ một khuôn mặt trắng ngà như trăng mùa xuân.   Trong vùng sương mù của ký ức tôi thấy lờ mờ hình ảnh của một đứa bé mũm mĩm dễ thương trong những tháng ngày kinh khủng của mùa đông chạy giặc Thái Bình.  Đáng lý ra con bé này phải là lão đồng của con gái tôi.  Nhưng bây giờ nó đang phủ phục đập đầu trước mặt tôi, cầu khẩn sự giúp đỡ.  

“ Mẹ con đang ốm nặng.  Chắc không qua nổi mùa đông này.  Xin phu nhân làm ơn ghé thăm.  Mẹ con khi mớ chỉ gọi tên bà.  Chỉ có bà thôi.”

Nếu nó đến gặp tôi năm năm trước thì tôi đã đuổi đi vì vết thương lòng vẫn chưa lành hẳn.  Nhưng giờ tuy tôi vẫn không thể tha thứ Tuyết Hoa vì những đau buồn nó gây ra nhưng một người ở địa vị tôi phải tỏ thái độ nhân hậu.  Tôi bảo Xuân Nguyệt cứ về, tôi sẽ đến ngay; rồi tôi cho kiệu đến để mang tôi đến Kim Điền.  Trên đường tới, tôi chuẩn bị tinh thần vì sắp phải gặp Tuyết Hoa cùng anh chồng đồ tể và đứa con trai mà chắc giờ này đã có vợ, và dĩ nhiên, lũ tỉ muội kết nghĩa.  

KIệu phu đặt tôi xuống trước cửa nhà Tuyết Hoa.  Căn nhà vẫn y như vậy.  Mốt đống củi dựng cạnh nhà.  Sân trước với cái chảo khổng lồ ở giữa.  Bóng anh đồ tể đứng thập thò đàng sau ngưỡng cửa.

“ Tôi không thể nhìn nàng đau khổ”  Hắn lấy mu bàn tay quẹt nước mắt.  “ Nàng đã cho tôi một đứa con trai đỡ đần công việc.  Nàng lại cho tôi đứa con gái ngoan ngoãn.  Nàng lúc nào cũng chăm lo việc nhà.  Nàng lo cho mẹ tôi cho đến chết.  Nàng là một người vợ hoàn toàn nhưng tôi đã đối xử tàn nhẫn với nàng.  Lỗ phu nhân.  Giờ tôi mới hiểu.”  Rồi hắn lầm lũi đi ra ngoài ruộng.

Bao năm đã trôi qua mà giờ mỗi khi nghĩ lại vẫn đau lòng.  Tôi tưởng đã tẩy sạch được hình bóng của Tuyết Hoa ra khỏi tâm tưởng nhưng khi thấy nằm trên giường thì tất cả bay đi sạch.  Thời gian và cuộc đời đã tàn phá dung nhan của nó.  Tôi tuy già nhưng da vẫn mềm mại vì kem dưỡng da, phấn thoa mặt, và không khi nào ra nắng, còn quần áo thì nhìn vào ai cũng biết tôi là ai.  Người nằm trên giường nếu tôi có gặp ngoài đường chắc không tài nào có thể nhận ra.  Đó là một bà lão hom hem ăn mặc rách rưới.  Mấy người đàn bà khác-- Liên, Liễu, Mận, cũng có mặt nơi đó.  Đúng như tôi nghĩ, họ là những người đàn bà từng gặp trên núi.  Tôi không chào hỏi họ.  

Khi tôi bước tới giường thì Xuân Nguyệt đứng sang một bên.  Tuyết Hoa nhắm nghiền đôi mắt  và nước da thì tái mét.  Tôi nắm bàn tan lạnh như đá của Tuyết Hoa rồi nhè nhẹ bóp bàn tay nó.
Lão đồng của tôi cố nheo mắt như không thể tin được người ngồi trước mặt có thật.  “ Tôi biết đó là bạn,” nó thủ thỉ.  Giọng tuy yếu nhưng khi nói thì tất cả những năm tháng đau đớn và kinh hoàng đột nhiên tan biến mất.  Đàng sau những tàn phá của ác bệnh, tôi thấy và nghe được đứa con gái xưa đã mời tôi làm lão đồng.
“ Nghe tiếng gọi của bạn,” tôi nói dối.  “ Là tôi ba chân bốn cẳng chạy lại đây.”
“ Tôi vẫn chờ bạn.”
Mặt nó nhăn nhúm vì đau đớn.  Một tay ôm bụng còn hai chân thì co lên.  Con gái Tuyết Hoa lẳng lặng nhúng khăn tay vào nước, vắt khô rồi đưa cho tôi.  Tôi cầm khăn lau khô mồ hôi vã ra trong cơn đau quặn.
Tuyết Hoa nói thều thào.  “ Mình xin chịu lỗi hết, nhưng bạn phải biết tình yêu bạn của mình không hề thay đổi.”

Đột nhiên một cơn đau nặng nổi lên.  Mắt nó nhắm nghiền không nói nên lời.  Tôi giặt khăn tay đặt trên trán nó và ngồi bên cạnh cho đến khi trời lặn.  Mọi người đã ra về, còn Xuân Nguyệt thì xuống bếp thổi cơm.  Tôi vạch chăn ra, căn bệnh đã hủy hoại chỉ còn xương bọc da và một cái bướu to như cái thai.

Cho đến giờ tôi cũng không giải thích được tình cảm của mình.  Tôi đau đớn và giận lâu như vậy chỉ vì vẫn còn yêu nó.  Tuyết Hoa là người duy nhất thấy được nhược điểm của tôi mà vẫn yêu tôi.  Ngay trong khi tôi ghét nó nhất thì tôi cũng yêu nó nhất.  

Tôi đắp chăn cho nó xong xuống nhà.  Anh đồ tể đang ngồi ủ rũ còn cậu con trai nay đã lớn khôn đứng cạnh em gái nó.  Chúng nhìn tôi với vẻ mặt in hệt mẹ- kiêu hãnh, chịu đựng, và khẩn nài.

“ Ta phải đi về bây giờ nhưng ngày mai sẽ trở lại.  Các cháu xếp chỗ cho ta ngủ.  Ta sẽ ở đây cho tới khi---” tôi không thể nói tiếp.

Chúng tôi chỉ còn có hai tuần.  Trong hai tuần đó việc ăn uống ỉa đái của tôi con gái Tuyết Hoa lo hết.  Mỗi ngày tôi lau người cho Tuyết Hoa rồi dùng thau nước đó lau người cho mình.  Chia xẻ cùng thau nước là cách chúng tôi biểu lộ tình yêu cho nhau.  Tôi chỉ mong nó thấy và hiểu là không có gì thay đổi.  

Ban đêm khi không còn ai, tôi nằm cạnh Tuyết Hoa.  Tôi ôm trọn nó vào người để truyền hơi ấm và chia sẻ những cơn đau làm nó rên rỉ trong cơn mê.  Nhiều khi ước mình là miếng bọt biển để có thể hút hết khối u trong bụng mỗi ngày một lớn thêm.  

Tôi cho vời ông lang của gia đình tôi đến bắt mạch.

“ Lỗ phu nhân.  Bệnh đã vô phương cứu chữa rồi.” ông nói.  “ Giờ chỉ còn chờ chết.  Tím tới chân rồi sẽ lên đùi rôi cả người.  Đừng khóc Lỗ phu nhân.  Đến lúc này thì người bệnh không còn biết đau đớn là gì.”  Ông để lại một gói thuốc, dặn sắc lên rồi cho uống.

Tôi nhớ người ta nói vị đắng bổ âm, hạ nhiệt, và có tác dụng bổ dưỡng tâm khí.  Tôi nhờ mấy bà chị em kết nghĩa làm món mướp đắng xào đậu đen và canh mướp đắng.  Tôi ngồi đút cho Tuyết Hoa từng thìa một.  Thoạt tiên nó còn ăn nhưng một hồi sau ngậm chặt miệng quay đi.  

Tôi cho người mời thầy cúng về.  Lão tuyên bố,  “ Chẳng có gì phải lo.  Trục được tà ma ra là khỏi bệnh ngay.  Mọi người phải quì xuống đọc kinh.”

Thế là Xuân Nguyệt, bà Vương, ba tỉ muội, và tôi quì xuống đọc kinh cầu Phật bà Quan Âm trong khi Tuyết Hoa lẩm nhẩm đọc theo.  Lão thầy cúng rút trong túi ra một tờ giấy, vẽ bùa rồi đốt lên, và cầm chạy khắp phòng trong khi múa kiếm chém tứ tung, miệng thì thét be be.

Nhưng bệnh tình dĩ nhiên không thuyên giảm.  Khi không chăm Tuyết Hoa thì tôi đan hài để đeo vào lúc tẩm liệm.  Tôi chọn màu nó thích hất.  Tôi thêu một chiếc với nụ sen tượng cho sự vĩnh cửu và cái thang tượng cho sự vươn lên.  Còn chiếc hài kia tôi thêu một con nai có cánh ý chỉ sự trường thọ-- như ta hay thấy thêu trên áo cưới hay trong những câu đối tặng sinh nhật.  

Dũng Cang sáng sáng mang trứng gà, quần áo, và lời nhắn của chồng tôi.  Ba ngày trước khi Tuyết Hoa mất, nó quì trước mặt và đặt cái giỏ dưới chân tôi. Rồi nó lấy ra thư từ, khăn tay, và cái quạt mà trước đây tôi tìm để đốt nhưng không thấy.  Nó là một con ở luôn luôn trung thành mà dám chống lệnh tôi khi cất dấu những vật này trong bao năm qua.  

Trong những ngày cuối cùng tôi và Tuyết Hoa cùng ôn lại chuyện xưa.  Nó thuộc lòng tất cả và cùng tôi đọc lại nhưng lá thư cho đến khi không còn đủ sức thì chỉ lắng nghe.  Đến đêm khi ánh trăng soi qua song cửa như cái thời còn cài trâm, tôi viết nữ thư lên bàn tay nó và đọc.   
“ Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”  
Tôi nhìn những giọt nước mắt chảy ra từ khoé mắt, chạy xuống thái dương rồi biến mất vào tai.  
Lần cuối cùng nói chuyện, nó nói.  “ Bạn có thể làm một việc cho tôi được không?”
“ Cái gì cũng được.”
“ Hãy làm dì của mấy đứa con tôi.”
Tôi hứa.  Rồi những lo lắng của cả một đời tan biến trên khuôn mặt Tuyết Hoa.  Chúng tôi nghe thấy Tuyết Hoa hít vào, thở ra, rồi im lặng.  Vài giây sau, lại hít vào thở ra, rồi im lặng.  Tôi đặt tay trên má nó như nó thường làm để cho nó biết lão đồng của nó vẫn có mặt cho đến cái hít thở cuối cùng, rồi im lặng đó.

Chúng tôi khiêng xác Tuyết Hoa xuống phòng dưới nhà.  Tôi dùng nước ấm lau khắp người Tuyết Hoa cho sạch rồi thay vào bộ quần áo tẩm liệm.  Người tỉ muội kết nghĩa lớn tuổi nhất chải đầu Tuyết Hoa.  Người tỉ muội thứ hai dồi phấn thoa son, và người tỉ muội trẻ nhất cài hoa lên tóc.  Sau đó thi hài được đưa vào quan tài.  Phường bát âm được mời đến tấu khúc nhạc hiếu trong khi chúng tôi ngồi cạnh xác.  Hai chị em kết nghĩa có tiền thì bắt đầu thắp nhang và đốt vàng mã, còn cô không có tiền nhưng lại có tài khóc thì lăn ra khóc lóc vật vã.  

Ba ngày sau anh đồ tể và con trai cùng mấy người chồng của tỉ muội khiêng quan tài ra nghĩa trang.  Tôi mang theo tất cả nữ thư của Tuyết Hoa ra mồ để đốt.  Sau đó chúng tôi trở về nhà.  Xuân Nguyệt hãm nước trà còn tôi và ba bà tỉ muội lên gác dọn dẹp.  Nhân dịp trò chuyện họ mới nói với tôi họ không phải là chị em kết nghĩa của Tuyết Hoa.  
“Thế còn cái quạt?” tôi nói, không tin.  “ Cô ấy nói là cùng các chị kết nghĩa cơ mà?”
“ Không,” Liên kiên nhẫn giải thích.  “ Chị ấy nói không muốn bà phải lo nữa, đã có bạn bè ở gần an ủi rồi.”

Họ xin được đọc lời viết trên quạt.  Họ đã được Tuyết Hoa dạy nữ thư trước đây.  Họ bu chung quanh cái quạt như một bày gà mái, nói năng chỉ trỏ, rồi họ quay lại nói.
“ Nhìn đây,” Liên chỉ vào hàng chữ. “ Đâu có nói gì về tỉ muội kết nghĩa đâu.”
Tôi giật lại cái quạt rồi ra đứng một góc nhà đọc kỹ lại.  “ “ Tôi có quá nhiều nỗi buồn, “ Tuyết Hoa viết.  “ Tôi không thể thành con người như bạn muốn.  Bạn sẽ chẳng phải nghe lời tôi than thở nữa.  Ba chị em kết nghĩa đã hứa yêu tôi vô điều kiện---”

“ Bà thấy không?” Liên nói. “ Tuyết Hoa muốn có người tâm sự.  Bù lại, chị ấy dạy chúng tôi nữ thư.  Chúng tôi xem chị như người thầy.  Chị ấy đâu có yêu chúng tôi.  Chị ấy chỉ yêu có mình bà.  Chị ấy muốn được yêu lại bằng một tình yêu không thương hại.  “

Lỗi tại tôi hết.  Vì cứng đầu và ngu đần nên tôi đã quên đi một điều tối quan trọng trong nữ thư là phải hiểu chữ theo nghĩa tổng thể.  Trong suốt tám năm trời Tuyết Hoa đã đau khổ vì sự mù quáng và dốt nát của tôi.  

“ Chị ấy lúc nào cũng cô nghe lời bà,” Liên nói.  “ Ngay cả chuyện chăn gối ngay sau khi sanh cũng vậy.”
“ Mắc mớ gì tới tôi.”
“ Mỗi lần sảy thai, bà đâu có an ủi gì chị ấy đâu,” Liễu nói.  “ Bà nói cứ cố có con trai nên chị ấy nghe lời bà.”
“ Thì dĩ nhiên phải khuyên nhủ như vậy.”
“ Chị ấy yêu bà đúng nghĩa của một lão đồng, có nghĩa là có sao yêu vậy, không đòi hỏi thay đổi, “ Mận nói.
Liên tiếp lời.  “ Bà có nhớ hồi trên núi mình tưởng chị ấy sảy thai không?
“ Dĩ nhiên tôi nhớ chứ.”
“ Lúc ấy chị ấy đã bị bệnh rồi.  “
“ Nói nhảm.  Rõ ràng gã đồ tể---”
“ Đúng là ông chồng đánh chị ấy thật,” LIễu công nhận.  “ Nhưng trong những máu me đen thối chảy ra hôm đó làm gì có thai nhi.  Sau đó chị ấy bị xuất huyết như vậy nhiều lần sau này.  Hôm bà hát bài lăng mạ thì chị ấy đang đau nặng.  “

Thì ra là thế.  Như vậy cái bướu đã tăng trưởng trong một thời gian khá lâu.  Đó là lý do tại sao nó biếng ăn, da tái mét trong khi tôi thúc nó ăn nhiều và bẹo má cho hồng để mà chiều chồng và phục vụ mẹ chồng.  

Tôi trở về nhà lên gác cầm theo cái quạt và vài bức thư.  Tôi mài mực cho đến khi đen như màn đêm.  Tôi mở quạt, chấm mực và viết hàng chữ cuối cùng.

Bạn, người duy nhất đã hiểu thấu lòng tôi
Giờ này đang bay cao trong mây
Sưởi ấm bởi ánh nắng mặt trời
Mong sẽ có ngày đôi ta cùng bay lượn ở giữa khoảng đất trời.
Bao nhiêu năm qua, tôi đã cố gắng ăn năn làm việc thiện để đền bù những điều đã đối xử không phải với người tôi yêu nhất thế gian này.
















19- Ân Hận

Tôi già quá rồi nên chẳng còn còn rớ tới chuyện nấu nướng hay thêu dệt.  Bàn tay nổi lấm tấm đồi mồi vì có tuổi, cho dù có làm việc ngoài trời hay tối ngày ru rú trong nữ phòng.  Và khi già thì da mỏng, hơi tí thì bầm giập.  Còn khớp ngón tay thì mỗi lần mài mực cầm bút là một lần sưng mọng lên.  Hai con ruồi đậu trên ngón tay cái mà tôi cũng chẳng buồn đuổi.  Nước mắt lúc nào cũng chảy sống ròng ròng.  Tóc chỉ còn vài sợi loe ngoe trắng như miến.  Khách đến chơi tránh không nhìn tôi và tôi cũng tránh không nhìn họ.  Tôi đã sống quá lâu.

Sau khi Tuyết Hoa chết, tôi vẫn còn nửa đời trước mặt.  Ngày gạo muối chưa xong hẳn nhưng lòng tôi đã bắt đầu sang tuổi xế chiều.  Đa số người ta chỉ bắt đầu sống yên ắng sau khi góa bụa.  Với tôi, tuổi xế chiều bắt đầu sau cái chết của Tuyết Hoa.  Tôi là “kẻ sống sót,” nhưng vẫn chưa được yên thân.  Tôi vẫn còn nhiệm vụ làm vợ, làm mẹ.  Tôi vẫn là Lỗ phu nhân đối với xóm làng.  Và  tôi còn có trách nhiệm đối với con cái của Tuyết Hoa để chuộc lỗi với lão đồng của tôi.  

Ngay sau khi Tuyết Hoa chết tôi đã đứng ra thay mặt nàng trong trong tất cả các nghi thức truyền thống hôn nhân của con gái.  Ngoài mặt thì Xuân Nguyệt có vẻ cam chịu với việc đi lấy chồng tuy buồn vì phải xa nhà và hoang mang sau khi đã chứng kiến cảnh bố đối xử với mẹ--và không biết tương lai sẽ ra sao.  Tôi tự nhủ con gái sắp đi lấy chồng ai mà chẳng vậy.  Nhưng trong đêm tân hôn, sau khi người chồng mới đã lăn ra ngủ, Xuân Nguyệt nhảy xuống giếng làng tự vẫn.  

“ Con bé đó không chỉ làm mang tiếng gia đình nhà chồng mà còn làm hư cả giếng làng,” người ta xầm xì.  “ Y như con mẹ nó.  Còn nhớ lá thư lăng mạ không?”  Vì lá thư đó mà thanh danh Tuyết Hoa đã bị tổn hại.  Vì lá thư đó mà người ta tưởng tôi là người đầy lòng vị tha đối với kẻ sa ngã.  Nhưng ngày tôi viết những hàng chữ ác độc đó trên cái quạt là một ngày mà lương tâm tôi sẽ không bao giờ tha thứ.  

Sau đó tôi dồn mọi nỗ lực vào thằng con trai của Tuyết Hoa.  Mặc dù hoàn cảnh không ra gì và bố thì ruồng bỏ, nhưng nó cũng đã học lõm bõm được chút ít chữ nghĩa và có khiếu về tính toán.  Vậy mà nó vẫn cam phận làm việc với bố và chẳng sung sướng hơn hồi còn bé bao nhiêu.  Tôi có gặp vợ nó, lúc ấy vẫn đang sống với bố mẹ.  Con bé cũng được.  Nó có bầu, và viễn tượng nó phải về làm dâu nhà gã đồ tể làm tôi đau lòng.  Tuy tôi không phải người thích xía vào chuyện đàn ông nhưng tôi nài nỉ chồng tôi--lúc bấy giờ không những đã thừa hưởng gia sản kếch sù của Lỗ đại thúc mà còn thêm tiền bạc do buôn muối và giờ có ruộng đất trải dài tới tận Kim Điền--kiếm cho thằng nhỏ công việc gì khác để nó khỏi phải suốt đời sống nghề đồ tể.  Chàng mướn con trai Tuyết Hoa làm công việc thu tiền tá điền và cho nó một căn nhà có vườn rau sau bếp.  Cuối cùng thì gã đồ tể cũng thôi việc, dọn về ở với con trai và cưng chiều thằng cháu trai, niềm vui của cả gia đình.  Nhưng tôi biết mình vẫn chưa làm đủ để chuộc lỗi với Tuyết Hoa.

Khi tôi tắt kinh vào tuổi năm mươi thì cuộc đời tôi lại thay đổi một lần nữa.  Như nói lúc nãy, tâm tôi đã sẵn sàng bước vào giai đoạn tĩnh tọa định thần.  Tôi bắt đầu ăn chay, tụng kinh để gội rửa bụi trần, và từ bỏ nhục dục.  Mặc dù trước đây tôi không chịu cho chồng lấy vợ bé, mà chàng cũng chẳng đòi, nhưng rồi tôi thấy cũng tội nghiệp.  Thế là tôi kiếm cho chàng ba nàng thiếp cùng một lúc.  Vì tôi là người đi kiếm vợ cho chồng nên tránh được cảnh ghen tuông nhỏ mọn.  Tôi còn vui mừng khi họ đẻ con.   Và chồng tôi còn được xóm làng trọng vọng hơn nữa vì không những có tiền để có năm thê bảy thiếp mà có khí lực nam nhi không ai sánh bằng.

Vợ chồng trở thành như hai người bạn.  Chồng tôi hay lên gác ngồi uống trà tâm sự với tôi.  Những lúc như vậy, chàng tìm được an ủi để làm tan đi những hỗn loạn, bất ổn, và băng hoại của thế giới bên ngoài.  Cả đời chưa lúc nào mãn nguyện như lúc này.  Cái vườn mà chúng tôi đã xây bây giờ đã trổ hoa rực rỡ.  Tất cả các con trai đều lấy vợ mang về ở chung.  Con dâu đứa nào cũng mắn đẻ.  Nhà tôi lúc nào cũng rộn ràng tiếng trẻ con.  Chúng tôi yêu cháu mình vô kể nhưng có một đứa không phải ruột thịt  nhưng tôi lại để ý đến một cách đặc biệt nhất.  Tôi muốn nó sống kề cận tôi.

Trong căn nhà nhỏ ở Kim Điền, cô vợ của con trai Tuyết Hoa đã đẻ một đứa con gái.   Tôi muốn con bé đó-- con cháu gái của Tuyết Hoa--về làm vợ thằng cháu đích tôn của tôi.  Sáu tuổi không quá sớm để làm Dạm Ngõ, miễn sao cả hai gia đình muốn ước hôn sớm cho chắc, miễn sao gia đình nhà trai sẵn sàng gửi gạo, và nếu gia đình nhà gái nghèo.  Chúng tôi hội đủ những điều kiện ấy và chồng tôi-- sau ba mươi năm chung sống mà tôi chưa hề làm gì cho chàng phải xấu hổ-- đã rộng lượng chấp thuận yêu cầu.

Tôi cho vời bà Vương đến khi chân con bé sắp sửa được bó.  Bà Vương vào phòng khách, hai đứa đầy tớ gái theo sau.  Bà da mặt nhăn nheo, mắt thì mù trắng dã, miệng móm mém không còn răng, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi, và lưng khòm co rút người lại.  

Tôi cho đầy tớ dọn trà và kẹo bánh.  Tôi nghĩ bà ta không nhớ tôi là ai.  Chúng tôi chuyện vãn một lúc thì tôi đi thẳng vào đề.
“ Tôi muốn tìm đám cho cháu đích tôi của tôi.”
“ Thế thì phải nói chuyện với cha của cháu chứ? “ Bà Vương hỏi.
“ Cha nó không có nhà và yêu cầu tôi lo liệu cho cháu.”
Bà già nhắm mắt không biết để ngẫm nghĩ hay vì ngủ gật.
“ Tôi nghe nói có đám có vẻ được ở Kim Điền,” tôi nói to.  “ Nó là con của anh thu tiền.”
Điều bà Vương nói sau đó cho thấy bà biết đích xác tôi là ai.
“ Sao không mang nó về làm con-dâu-nhỏ?” bà hỏi.  “ Gia đình bà danh giá.  Tôi chắc là con trai và con dâu bà sẽ hài lòng hơn với sắp đặt đó.”

Sự thực là con trai và con dâu tôi rất không hài lòng nhưng phải chịu đó mà thôi.  Con tôi là nho sĩ.  Mới ba mươi tuổi đã đỗ bằng cử nhân.  Nó ít khi nào về nhà, mỗi khi về thì kể đủ chuyện kì quái về những ngoại nhân râu tóc đỏ hoe có vợ thắt eo chặt đến độ không thở được và chân to tướng như những con cá chép mới câu được.  Ngoài ra thì con tôi rất có hiếu, cha mẹ bảo gì nghe nấy, còn con dâu thì phải nghe lời tôi, nhưng nó vẫn chạy vào phòng tấm tức khóc.  

“ Tôi không muốn một con bé chân to,” tôi nói.  “ Tôi muốn lấy về một đứa có chân đẹp nhất tỉnh.”
“ Nó chưa bắt đầu bó chân thì làm sao dám bảo đảm---”
“ Nhưng bà đã thấy chân nói rồi, đúng không? Bà nhin giỏi lắm mà.  Thế bà nghĩ sao?”
“ Lỡ con mẹ nó bó không khéo---”
“ Thì tôi sẽ đảm nhận chuyện đó.”
“ Chưa cưới xin sao mang nó về nhà được,” bà Vương nói.  “ Đâu cho hai đứa nó thấy mặt nhau được.”
Bà ta không hề thay đổi, và tôi cũng vậy.
“ Bà nói đúng.  Tôi sẽ đến nhà nó.”
“ Đâu có được---”
“ Tôi sẽ đến thường xuyên.  Có nhiều cái tôi có thể dạy nó.”  Tôi nhìn bà Vương ngẫm nghĩ rồi tôi cúi tới và cầm hai tay bà.  “ Dì Vương này, tôi nghĩ là bà nội nó cũng đồng ý.”
Một giọt lệ chợt ứa ra trong khoé mắt bà mối già.
“ Phải dạy con bé này nữ công gia chánh,” tôi nói tiếp.  “ Phải cho nó đi viếng Đền Khưu Phổ mỗi năm.  Tôi nghe nói ngày xưa có hàng khoai rán ngon lắm thì phải.  Nghe nói người bán bây giờ là cháu ông hàng khoai ngày xưa.”

Và cuối cùng thì cháu gái của Tuyết Hoa do tôi lo liệu hết.  Đích thân tôi bó chân cho nó.  Tôi tỏ cho nó biết tình yêu của người mẹ khi bắt nó đi qua đi lại trên gác nhà nó.  Đôi chân của Mẫu Đơn thành hai gót sen hoàn hảo, y hệt  chân tôi.  Trong những tháng dài đợi xương lành lặn, tôi đến thăm nó mỗi ngày.  Bố mẹ nó thương nó lắm, nhưng bố nó cố quên đi quá khứ còn mẹ nó thì không biết gì cả.  Và tôi kể chuyện cho nó nghe, thêu dệt những chuyện về bà nội của nó cùng người lão đồng, về viết nữ thư, về những buổi hát hò, về tình bạn cũng như về thử thách của cuộc đời.
“ Bà nội con, con nhà có học,” tôi nói nó.  “ Con sẽ học những cái mà bà con đã dạy ta-- về đường kim mũi chỉ, về phẩm giá con người, và quan trọng nhất, nữ thư.”
Mẫu Đơn rất siêng năng, nhưng một hôm nó nói tôi, “ Chữ viết con thô kệch.  Con mong bà tha thứ cho con.”
Nó là cháu của Tuyết Hoa nhưng có một phần của tôi trong nó, vậy mà sao tôi không thấy?


Tôi nhiều khi suy nghĩ không biết cái nào khó hơn, nhìn Tuyết Hoa chết hay nhìn chồng tôi chết?  Cả hai đều chết đau đớn.  Chỉ có cái khác là đám ma chồng tôi có ba đứa con trai đi bằng đầu gối tới tận nghĩa trang.   Khi chồng chết, tôi đã năm mươi bẩy tuổi, chẳng còn trẻ trung để tính chuyện tái giá hay để con phải lo sợ nhỡ có tình nhân.  Tôi đã không màng tới chuyện gối chăn đã từ lâu.  Tôi không nói gì mấy đến chồng tôi trong cuốn tự truyện này nhưng phải nói là có chàng thì còn có lý do để sống.  Tôi phải lo cho cơm ăn áo mặc của chàng.  Tôi phải tìm lời làm cho chàng vui.  Bây giờ tôi không thiết đến ăn uống mà cũng chẳng cần phải làm gương cho phủ huyện.  Tôi quên mất đi ý niệm về thời gian.  Ngày trôi thành tuần.  Tôi cũng chẳng để ý đến xuân hạ thu đông.  Năm biến thành thập niên.

Cái khổ của người sống dai là phải chứng kiến người thân của mình ra đi-- bố mẹ tôi, chú thím tôi, anh chị em tôi, bà Vương, chồng tôi, con gái tôi, hai đứa con trai tôi, tất cả con dâu tôi, ngay cả con Dũng Cang.  Con trai cả tôi thi đỗ cống sinh, rồi tiến sĩ.  Đích thân Hoàng Đế cũng phải đọc bài bát cổ của con tôi.  Là quan trong triều, con tôi ít có mặt ở nhà nhưng nó đã bảo đảm vị thế của nhà họ Lỗ trong nhiều đời sau.  Nó có hiếu, và tôi biết nó không bao giờ xao lãng trách nhiệm.  Nó còn mua cả quan tài-- một chiếc to và sơn phết bóng láng--để chôn tôi khi chết.  Tên của nó--cùng tên của Lỗ đại thúc và ông cố của Tuyết Hoa-- được treo trong đền thờ tổ của Tùng Khẩu cho đến khi nào đổ nát thì thôi.

Mẫu Đơn năm nay ba mươi bảy,  hơn tôi sáu tuổi khi tôi thành Lỗ phu nhân.  Là vợ của cháu đích tôn, nó sẽ thành Lỗ phu nhân khi tôi chết.  Nó có hai con trai, ba con gái, và sẽ còn đẻ nữa.  Con trai cả của nó lấy vợ làng bên. Nó mới đẻ sanh đôi, đứa con trai đứa con gái.  Tôi thấy có nét nhang nhác của cả Tuyết Hoa lẫn tôi.  Khi còn bé cha mẹ thường bảo con gái là ngành vô dụng trong gia tộc vì nữ sinh ngoại hướng, đi lấy chồng là phải mang tên và lệ thuộc nhà chồng.  Tất cả đều đúng, nhưng trong những ngày tháng về chiều tôi cảm thấy mãn nguyện vì máu mủ ruột thịt  của tôi và Tuyết Hoa sẽ cai quản gia đình họ Lỗ.

Nhiều năm trước đây, khi tôi còn sang Kim Điền để dậy Mẫu Đơn và tỉ muội kết nghĩa cách đọc và viết nữ thư, nhiều bà đến nhờ tôi viết lại tự truyện đời họ.  Tôi đâu thể từ chối được.  Tôi bắt họ trả thù lao bằng ba quả trứng và ít bạc vụn.  Tôi đâu cần tiền bạc hay trứng làm gì, nhưng tôi là Lỗ phu nhân  và họ phải kính trọng địa vị của tôi.  Họ sanh ra trong gia đình nghèo khổ, đi lấy chồng sớm, nhà chồng xem thường, và còn bị chồng đánh đập.

Sau khi nghe không biết bao câu chuyện, tôi nghĩ về đời mình.  Trong suốt bốn mươi năm qua, mỗi lần nghĩ đến quá khứ tôi chỉ cảm thấy ân hận.   Người quan trọng nhất thì tôi lại xử tệ hơn chồng nàng.  Sau khi Tuyết Hoa nhờ tôi làm dì của con cái, nàng nói--và đây là những lời cuối cùng nói với tôi--” Dù thua kém bạn nhưng tôi tin định mệnh đã nối kết hai đứa mình lại với nhau.  Mình sẽ bên nhau mãi mãi.”  Tôi cứ nghĩ mãi về câu nói này.  Nếu quả tình người đã khuất bóng vẫn có những cái muốn và khao khát của người sống, thì tôi đang cố thò tay với tới Tuyết Hoa cùng những người đã từng là chứng nhân.  Hãy nghe lời tôi nói.  Hãy tha thứ cho tôi.





































 








 
















No comments:

Post a Comment