Wednesday, January 6, 2016

Anh Hùng Một Cõi

Anh Hùng Một Cõi

To Tame a Land by Louis L'amour

Chương 1



Khi bánh xe bò gẫy xụm giữa vùng đất mọi, đoàn lữ hành vẫn tiếp tục đi, để mặc bố con tôi ở lại.  
Tuy mới 12 nhưng tôi đã lớn tồng ngồng và chửi thề không thua Bố.  
Bagley, người mà bố tôi từng giúp đỡ hồi còn ở Hốc Tro, đỏ mặt tía tai vìmắc cở nhưng vẫn đánh xe đi qua.  Nói chung, người ta  cũng tốt chứ không phải tệ bạc gì, nhưng họ phải theo lệnh của người dẫn đầu, Big Jack McGarry.
Big Jack không thích Bố vì Bố không bao giờ nhờ vả hắn, và vì Mary Tatum thích Bố.  Hắn quay ngựa lại, đứng nhìn chúng tôi gỡ bánh xe để sửa.
“ Đừng buồn nghe Tyler.  Đây là đất mọi. Không thể ngừng lại được.  Không cần biết lý do.  Khi đến con suối thì chúng tôi sẽ nán lại đợi cha con anh.”
Rồi hắn quày ngựa phóng đi.
Bố tôi nhìn theo, nét mặt đanh lại rồi quay lại nói,
“ Bố không sợ cho mình, chỉ lo cho con.  Nhưng có lẽ không sao.  Con lấy cây súng trường lên cái mỏm cao canh chừng.”
Rồi Bố ngồi lay hoay sửa xe.  Bố có nhiều kinh nghiệm thợ mộc và sửa xe.  Tôi ôm súng ngồi canh gác nhưng chẳng thấy gì ngoài một cánh đồng cỏ mênh mông.  Những ngọn gió làm hàng cỏ oằn xuống như những gợn sóng ngoài đại dương.  Bầu trời trong xanh và đâu đó, vài cụm mây lãng đãng trôi.
Chúng tôi có một cỗ xe loại tốt kéo bởi 6 con bò khoẻ mạnh, 2 con ngựa có yên cương hẳn hòi, và bên trong xe là dụng cụ của Bố, thực phẩm khô, chăn mền, vài thứ lỉnh kỉnh khác và hình của Má mà Bố luôn luôn giữ kỹ.
Trước khi rời Kansas, Bố tậu thêm hai khẩu cạc-bin Joslyn và mỗi người đeo một khẩu súng lục Shawk & McLanahan.
Như McGarry nói, đây là đất mọi.  Không tới 2 tuần trước chúng tấn công một đoàn xe nhỏ hơn đoàn chúng tôi, giết chết 4 người đàn ông và 1 người đàn bà.  Đoàn chúng tôi là một đoàn khá lớn, võ trang đầy đủ.
Khi trời sắp tối, Bố gọi tôi.  “ Xuống đây con.  Cưỡi ngựa đi thám thính coi xem đoàn xe còn ở suối không.”
Chúng tôi dùng sao trời để định hướng và chạy cả đêm về hướng tây.  Khi trời tờ mờ sáng thì thấy ánh nước phản chiếu lóng lánh xa xa.  Bố vẫn còn tuốt ở phía sau.
Tôi không thấy bóng dáng của đoàn xe đâu cả.  Chúng tôi không thể đi tiếp vì phải cho bò nghỉ.
Thế là Jack McGarry đã không dừng lại và đâu có ai biết hắn đã hứa với bố con tôi.  Chúng tôi cho bò uống nước xong đi tiếp độ 3 dặm tới một vùng có lùm cây để nghỉ.  Bố tháo ách để bò ăn cỏ.  Ông vác khẩu Joslyn lên đồi rồi nằm xuống canh chừng.


Tôi nằm ngủ dưới gầm xe và độ một tiếng sau chợt cảm thấy tay Bố vỗ nhè nhẹ.
“ Chúng nó tới rồi.  Con lên ngựa mà chạy trốn,” Ông quì gối bên cạnh tôi.  “ Kiếm mấy vùng đất thấp mà chạy thì may ra có thể thoát được.”
“ Con không đời nào để bố ở lại “
“ Đi ngay đi con.  Một mình có thể trốn được.   Hai người thì vô phương.  Con lấy con ngựa Ô cho nó nhanh.”
“ Bố đi với con.”
“ Không.  Gia tài mình chỉ có bấy nhiêu.  Bố phải ở lại.  May ra chúng chỉ lấy ít đường cát rồi bỏ đi.”
“ Con cũng ở lại.”
“ Không!”


Kể từ khi Má chết, Bố ít khi la tôi nhưng lần này Bố la một cách nghiêm khắc.  Tôi không dám cãi lời, tháo dây cương và nhảy lên mình ngựa.
Bố đưa tôi một dây đạn rồi nắm lấy tay tôi.  Nước mắt ông ràn rụa.
“ Chúc con may mắn.  Đừng quên mẹ con.”
Rồi ông vỗ mông con Ô và nó chồm người phóng tới trước.  


Tôi vẫn không muốn bỏ Bố lại nên chạy vòng khúc cong trên đồi rồi ghì cương con Ô đứng nấp một bên.
Có tiếng súng nổ và tôi thấy cát bụi bắn tung toé lên gần xe. Tôi cột ngựa lại một bụi rậm gần đó rồi rút khẩu Joslyn và nằm xuống.
Có khoảng 12 thằng mọi và một con ngựa không người cưỡi chạy đi.  Tụi mọi bắt đầu chạy vòng chung quanh và Bố nổ súng.  Một thằng mọi ôm kịp bờm ngựa, suýt té.  


Mặt trời vừa ló dạng nhưng đã thấy nóng.  Tôi có thể ngửi thấy mùi cỏ cháy và cảm thấy cái nóng của mặt trời dội trên lưng, và bàn tay tôi nhớp nháp mồ hôi, nhưng tôi vẫn đợi.
Mặc dù tôi vẫn là một thằng bé con và Bố không phải là một tay giết mọi chuyên nghiệp nhưng tối nào tôi cũng ngồi nghe truyện đánh nhau mọi bên cạnh lửa trại nên cũng biết chút ít.  Và tôi biết có lúc phải bắn, nhưng cũng có lúc phải đợi.
Bố bắn hạ một con ngựa và tụi mọi quay đầu chạy.  Nơi tôi nằm chỉ cách đó có 150 yards và có thể thấy được toàn bộ.  Đột nhiên, tôi thấy đám cỏ lay động.  Chúng nó đang bò lên.  Liệu bố có thấy không?
Không, ông không thể thấy được, nhưng đã tiên liệu sẵn nên chui ra khỏi phía sau bánh xe và nấp sau một tảng đá cách đó không xa.  Bố vẫn đợi.  Tuy chỉ là ông thợ mộc khéo tay, không phải dân đánh mọi, nhưng Bố là người thông minh.  Bất thình lình ông nhổm dậy và bắn nhanh.  Tôi thấy một thằng mọi bị đạn vào vai, té ngửa ra.
Rồi 2 thằng xông tới trước.  Bố bắn và hụt, và bắn và trúng.  Và rồi tôi nghe tiếng thì thầm trong lùm cỏ và thấy 4 thằng mọi dắt ngựa  chầm chậm phía sau bố.  Chúng chỉ cách tôi độ 30 yards.  Tôi chỉ đợi có như vậy.  Miệng tôi khô đến độ không thể nuốt nước bọt.  Tôi đưa súng lên nhắm, hít một hơi dài và thở ra từ từ, và rồi tôi bóp cò.  Khẩu súng giật mạnh và thằng mọi đầu tiên kêu cái hự và té khỏi ngựa.  Tôi đã bắn bể sọ nó.
Bố giật mình quay lại, bắn một phát, rồi quay lại khi tôi bắn lại.  Phát súng thứ hai của tôi đi xuyên qua cột sống một thằng mọi và 2 thằng kia bỏ chạy.  
Tụi nó bị bất ngờ, tưởng chỉ có một người sau xe, ai ngờ hai thằng bị tôi bắn trong vòng không tới 1 phút.  
Bắn 1 phát nữa, và tôi quay lại.


2 thằng mọi đã tấn công và giờ đang đánh nhau với Bố.  Cùng lúc đó, 2 thằng ban nãy chạy giờ quay trở lại.  Có lẽ vì khích động nên tôi bắn hụt  và tôi thấy Bố té xuống và con dao dơ lên, phập xuống, và tôi biết không thể cứu kịp bố tôi.  


Tôi nhẩy vội lên con Ô và dục ngựa chạy đi.  Nhưng tôi chạy một vòng rồi quay trở lại khi trời tối  Tôi không nghe thấy động tĩnh gì và cột con Ô vào một bụi rậm rồi bò về phía cái xe.  Khi tới gần, tôi có thể ngửi thấy mùi củi đốt.  Cái xe tuy cháy xém nhưng vẫn còn.  Khi bò tới gần hơn, tôi thấy xác Bố.  Chúng đã lột da đầu ông.
Bật que diêm lên, tôi lục lọi trong xe.  Chúng lấy tất cả nhưng gì có thể dùng được.  Tôi biết chỗ dấu tiền và vàng của Bố.  Tôi lấy mũi dao khậy một vết nứt trong gỗ mà Bố đã trám lại.
Chúng đốt xe nhưng chỉ cháy bên ngoài.  Tôi lấy xẻng đào lỗ chôn bố bên triền đồi.  Và tôi đã khóc như một đứa con gái.  Chôn xong, tôi chất một đống đá và lấy miếng gỗ khắc tên bố bằng sắt nung.  Tôi kiếm được hình Má, kẹp vào cuốn Thánh Kinh rồi trèo lên con Ô.  
Mấy con bò không thấy đâu.  Chắc mấy thằng mọi đã làm thịt ăn một bữa no nê và giờ chắc đã ngủ say.  Tôi chắc là chúng phải đi về hướng con suối để uống nước.  Tôi dắt ngựa đi về hướng suối.  Tôi có thể chỉ là một thằng nhóc con, nhưng lũ mọi đã giết Bố và ăn cắp bò của tôi.  Tôi phải làm thịt một thằng mọi.


Tối thiểu là một thằng.


Chương 2



Đêm thơm mùi cỏ.  Trên trời hàng triệu vì sao lấp lánh, và gió thổi mơn man trên da.  Rồi tôi ngửi thấy mùi củi đốt và phân bò.  Con Ô vểnh tai bước đi rón rén trong cỏ.   Nó đã ngửi được mùi mọi da đỏ.  Tôi cột ngựa lại và đi lom khom tới gần.
Đám lửa đã gần tàn và ngựa thì cột một bên.  Chúng nó ngủ say như chết.  Còn bốn con bò.  Chúng mới ăn hai con.  Người da trắng thì phải 1 tuần mới ăn hết một con bò.  Mọi thì không.  Ăn phình bụng hôm nay để rồi đói meo đói mốc ngày mai.  


Tôi bò về phía mấy con ngựa.  Khi tới gần, tôi đứng dậy và thản nhiên tới gần.  Khi tôi cầm dây cương thì một con chợt khịt mũi.  Tôi cắt dây cột và quất đít cho ngựa chạy về phía tụi mọi ngủ.  Khi chúng lồm cồm bò dậy là tôi bắn.
Tôi bóp cò khẩu Joslyn liên tiếp ba phát.  Rồi tôi rút khẩu súng lục, vừa chạy vừa nã đạn.
Hai thằng ngã gục, một thằng ôm bụng.
Một thằng nữa bị đạn vào chân, chạy cà nhắc.  Tôi quay đầu cắm cổ chạy về phía con Ô rồi chạy cả đêm về hướng tây theo vết xe bò.  Trời tờ mờ sáng tôi tìm được một chỗ hõm trên đồi và cột ngựa nằm ngủ.  


Ngày hôm sau tôi bắn hạ một con bê.  Tôi ăn thịt không có muối với vài củ hành dại nhặt được.  
Đêm chạy theo hướng sao trời, ngày thì nghỉ.   Như Bố đã dạy.  Cứ như vậy mà đã được một tuần.  Tôi để dành đạn, chỉ bắn mấy con bê.  Có lần tôi bắt được một mẻ cá và chiên cá bằng mỡ bò rừng.
Hai tuần sau tôi mới bắt kịp đoàn xe vì phải vừa đi vừa săn bắn và đi đứng rất cẩn thận.  Tôi chẳng muốn da đầu mình treo lủng lẳng trên lều mọi Arapaho.  Khi tới đèo Nam thì tôi thấy được đoàn xe.  Tôi phóng ngựa chạy qua vùng thung lũng đầy cỏ nằm giữa ngọn núi Nước Ngọt và dãy Phong Giang.


Đoàn xe bò chạy thành một hàng dài với những kỵ mã cưỡi ngựa hai bên làm tôi cảm thấy như có gì nghèn nghẹn trong cổ.  Ngay lúc này tôi ghét mọi người, nhất là Big Jack McGarry.  Người tôi gặp đầu tiên là Bagley.  Mặt hắn bỗng trắng bệch khi thấy tôi.  


“ Rye! “ hắn nói. “ Tía mày đâu?”
Đoàn xe chạy chậm lại và nhiều người cưỡi ngựa về phía tôi.  
" Bố tôi chết rồi,” tôi nói với họ, nước mắt bỗng tuôn trào.  “ Mấy người đã giết ổng.  Tại sao mấy người không chờ?”
“ Chờ? Chờ ở đâu?”
“ McGarry nói mấy người sẽ chờ ở suối.  Hắn nói bố tôi như vậy.  Chúng tôi đến ngay mà chả có ai.”


Một người đàn ông tướng tá rắn rỏi, mặc quần da hoẵng, cưỡi con ngựa đen tuyền, ghìm cương lại hỏi.  “ Chú nhỏ, có chắc là Big Jack hứa chờ ở suối không?”
“ Chắc chắn.”
Big Jack cưỡi ngựa lại, đẩy dạt đám đông ra.  “ Này, làm gì mà ngừng đoàn xe lại vậy?... Ồ thì ra mày.”
Mặt hắn rõ ràng là không ngờ tôi còn sống.  Người đàn ông mặc da hoẵng nhìn Big Jack.
“ Jack, thằng nhỏ nói mày hứa với bố nó là sẽ đợi ở suối.”
“ Nói láo,” McGarry nổi cáu.  “ Thằng nhóc con nói láo.  Tao chẳng nói cái gì hết.”
“ Ông có nói.” tôi đặt tay lên khẩu Shawk & McLanahan.  “ Ông mà nói tôi nói láo tôi bắn ông liền.”
Người đàn ông mặc da hoẵng nhìn tôi lắc đầu.  “ Yên.  Chuyện đâu còn có đó.”  Ông quay lại McGarry.  “ Tao vẫn chưa hiểu tại sao đến suối nước ngọt mà không ngừng lại.  Tuy hơi sớm nhưng với chiếc xe còn kẹt lại…?”
“ Tao không hứa gì với nó.  Làm vậy để làm gì?”
“ Bởi vì Bố không sợ ông.  Và bởi vì ông thích Mary Tatum.”


Tôi có thể thấy được tia nhìn căm ghét trong đôi mắt ti hí của hắn.  “ Mày không câm miệng lại thì tao cho mày một trận bây giờ đó thằng nhãi con.”
“ Mày đừng có hăm dọa ai hết. “ Người đàn ông mặc da hoẵng quay lại hỏi Mary Tatum.  “ Ai cũng biết McGarry muốn theo bà.  Hồi còn Tyler bà có hay nói chuyện với Big Jack không?”


Mary không những đẹp mà còn cứng cỏi.  Tôi biết Bố thích bà ấy và có lần hỏi tôi có muốn bà ấy về làm mẹ không?
Mary nói nhẹ nhàng.  “ Tôi vẫn nghĩ nhiều về Tyler.  Ông ta là người tốt và thành thật.  Tôi cũng muốn lấy Ralph Tyler.  Tôi không đời nào lấy một người chồng như McGarry.”


Mặt McGarry đỏ bừng lên.  Hắn lắp bắp nói không nên lời.
Người đàn ông mặc da hoẵng chận lời.  “ Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết được đầu đuôi ngọn ngành câu chuyện này.  Chúng ta đáng lẽ phải đợi ở suối.  Tao nghĩ là mày có hứa với người ta.”


Tôi tưởng McGarry thế nào cũng rút súng nhưng không.  Người đàn ông rắn rỏi này toát ra một vẻ nguy hiểm, đáng sợ.  
Một người đàn ông to con mặc áo đen nói.  “ Mình phải bầu lại.  Cần có một thủ lĩnh mới.”
Big Jack McGarry nhìn tôi bằng ánh mắt căm hận.  Trông mặt mũi hắn thật dữ dằn.  
Mary thấy thế và bước lại cạnh tôi.
“ Rye,” bà nói ngọt ngào, “ Tôi rất tiếc về cái chết của Ralph.  Cháu có đi cùng với chúng tôi không?”
“ Dạ không, “ tôi nói.  “ Tôi không muốn đi chung với đám người này.” tôi nhìn Bagley.  “ Có nhiều người không thích tôi.”
“ Nhưng Rye, cháu còn bé quá.” bà phản đối.
“ Mình tôi đã giết ba thằng mọi,” tôi nói.  “ Những ngày qua tôi đã một mình một ngựa vượt qua vùng đồng bằng này.  Tôi sẽ đi tiếp một mình.”
Bà mỉm cười, “ Cũng được, Rye, nhưng cháu sẽ ăn tối chung với chúng tôi đêm nay chứ?”
“ Dạ vâng, cám ơn bà.”


Mary là một người nấu ăn khéo léo.  Bà còn làm bánh bít-qui cho tôi ăn.  Đến đêm bà mang cho tôi một tấm chăn trong xe bà.
“ Ước gì,” tôi nói.  “ Ước gì bà là mẹ tôi.”
Bà kéo đầu tôi áp vào lòng, và tôi không cầm lòng được, khóc nức nở.  Tôi mắc cở, chùi vội giòng lệ và cầm chăn đi ra ngoài tìm chỗ ngủ.  


Sáng hôm sau khi tôi thắng yên ngựa thì Big Jack đi ngang.  Hắn ngồi trên mình ngựa nhìn tôi bằng cặp mắt hiểm ác.  “ Mày tưởng mày ngon lành hả? tao sẽ cho mày biết tay tao.”
Ngay lúc đó quả tình tôi có sợ nhưng súng lục đã dắt sẵn trong lưng, và tôi biết nếu hắn ra tay tay thì tôi sẽ không ngần ngại rút ra.
“ Vì ông mà bố tôi đã chết,” tôi nói.  “ Có bố tôi ở đây thì sức mấy ông dám ức hiếp tôi.”


Hắn thúc ngựa về phía tôi và đưa cái roi da lên và đúng lúc đó, có tiếng lên đạn phía sau tôi, và tôi nghe tiếng nói.
“ Đánh nó đi.  Đoàn xe này có dư thì giờ để chôn mày.”
McGarry sựng người lại.  Đó là người đàn ông mặc da hoẵng, tay cầm khẩu súng lục.
“ McGarry,” ông nói,  “ Nếu bất kỳ có chuyện gì xảy ra cho thằng nhỏ khi tao còn ở đây, cho dù là tai nạn rủi ro đi nữa.  Thì tao sẽ giết mày.”


McGarry buông tay roi xuống và cưỡi ngựa về phía trước mặc dù đã mất chức thủ lĩnh.
Người đàn ông mặc da hoẵng tiến lại gần tôi với nét mặt đăm chiêu.  “ Cháu nhỏ,” ông nói.  
“ còn bé quá mà đã đeo súng, nhưng lúc nào cũng phải sẵn sàng.”
“ Dạ vâng.”
“ Tên chú là Logan Pollard.”  Ông nhìn tôi một hồi lâu.
“ Kể cho chú nghe những sự việc xảy ra gần đây.  Khi cha cháu bị giết.”
Và lần đầu tiên, tôi kể hết sự tình từ đầu tới đuôi.  


Ông gõ tẩu cho tàn thuốc rơi ra và bảo tôi.  
“  Cũng khá đấy.  Nhưng cùng bất đắc dĩ mới phải dùng tới súng.”  Nói xong ông bỏ đi.
Sáng hôm sau khi đoàn xe bắt đầu lăn bánh, ông ra dấu cho tôi cưỡi ngựa đi theo và chúng tôi rời xa đoàn xe.  Mãi đến khi lên tới đỉnh đồi ông mới nói.  “ Mình sẽ đi săn vài con hoẵng rồi ta sẽ bắt đầu dậy con.”
“ Cháu có đi học.  Cháu đã biết đọc.”
“ Không phải dậy mấy thứ đó.”  Ông nhìn tôi, khuôn mặt không hề nở một nụ cười.  “ Dạy những cái cần thiết.  Ta sẽ dạy con cách đọc dấu người để lại, nhìn giày mọi mà biết bộ lạc, cách đi kiếm thú rừng, và cách sử dụng súng.  Còn nhiều cái con chưa biết cho nên đừng vội tính chuyện đi một mình vội.”
Ông chỉ vào một cây cao khoảng một thước, đầy gai góc và hoa màu trắng.
“ Thảo nhi mọi,” ông nói, “ Không có gì ăn thì rễ nó có thể ăn tạm.  Nhớ lấy.”
Ông cưỡi tiếp dẫn đường, vừa đi vừa chỉ.  Đến tôi chúng tôi cưỡi vòng lại, mang theo hai con hoẵng.
“ Ở nhà,” ông nói, “ Ta có gần hai nghìn cuốn sách.  Nhưng cái này,” ông vung tay gom trọn khoảng không gian trước mặt, “ cái này là cuốn sách ta thích nhất.  Không bao giờ học hết.  Mỗi ngày có một cái mới.”
Khi chia tay, ông nói.  “ Đừng khinh thường người mọi.  Họ sống đây đã lâu.  Hãy học hỏi nơi họ.”

Chương 3



Sáng hôm sau Logan đến tìm tôi ngay khi đoàn xe khởi hành rồi chúng tôi phóng ngựa như bay đi trước.  Vừa đi ông vừa dạy.
“ Khi rình nai,” ông nói, “ chỉ cử động khi nó cúi ăn.  Khi nó vẫy đuôi là sắp sửa ngẩng đầu.  Đứng yên đó.   Đợi cho đến khi nào nó ăn trở lại, lúc ấy mới được nhúc nhích.
“ Người da đỏ hông người bằng khói cây ngải đắng trước khi đi săn để mất mùi.  Bạc hà cũng được.”
Rồi chúng tôi đến một lùm dương.  Bạn có bao giờ thấy cây dương chưa? nó mọc thành chùm, thẳng và đều.


Logan Pollard xuống ngựa, buông cương cách hàng dương khoảng mười lăm mét.  
“ Rút súng ra,” ông nói,  “ buông thõng ngang hông.”
Ông nhìn vào một cây dương và rút súng.
“ Đưa súng ngang vai, ” ông nói,  “nhắm vào cây.”
Cứ thế mà tập đi tập lại hơn một tiếng.  
“ Ngày nào cũng tập. Ngày nào cũng đây.”
" Chú có dậy rút nhanh không?” tôi hỏi. Tôi nghe người ta nói Jack Slade và mấy thằng nữa, giỏi cái tài này lắm.  
“ Chưa được,” ông ngồi chồm hổm.  “ Phải học cách xử dụng súng trước.  Rút nhanh không quan trọng bằng bắn trúng.”
Ông dậy nhìn mục tiêu chứ không nhìn súng, bắn như chỉ ngón tay, đeo bao da như thế nào để rút dễ.  
“ Chỉ dùng súng khi bắt buộc,” ông nói,  “ Không được gây chuyện.  Cao nhân tất hữu cao nhân trị.  Người giỏi ắt có người giỏi hơn.  Súng là vũ khí, sử dụng nếu cần.  Không đụng đến nếu không cần.”


Qua khỏi vùng núi non là đến lúc tôi tách khỏi đoàn xe.
“ Chúng tôi sẽ ở lại California, Rye ạ,” Mary Tatum nói.  “ Cháu có muốn ở với chúng tôi không?”
“ Dạ không, cám ơn cô.  Cháu sẽ về hướng nam chung với chú Pollard.”
Bà quay về hướng Logan, cưỡi trên lưng con ngựa đen.   “ Trông chừng thằng bé.  Tí nữa thì nó đã là con tôi đấy.”
“ Đàng ấy trông trẻ như thế mà đòi làm mẹ ai.  Có thể tôi sẽ theo thằng bé đến thăm không chừng.
Bà nhìn ông cho đến khi đôi gò má ửng hồng.
“ Thế thì còn gì bằng nữa.  Mời anh cứ đến chơi.”
Và chúng tôi nhìn đoàn xe đi về hướng Hồ Muối, tận cuối chân trời.


Đường về hướng nam có những khúc quanh co, gập ghềnh.  Ngày nào tôi cũng tập bắn cho đến khi thật thành thạo.  Rút nhanh, bắn trúng.  Chúng tôi ăn bờ, ở bụi.  Tôi học cách nhúm lửa, đánh bẫy, giả giọng nai sừng, làm nồi bằng vỏ cây.
Có khi mỗi người đi mỗi ngả, tôi phải tự kiếm ăn và phải theo dấu mà tìm ông.  Nhưng không bao giờ xao lãng việc tập bắn.  Tập cho đến khi không phân biệt người với súng.  Cho đến khi, rút là bắn.  Và bắn là trúng.  Nhưng Logan Pollard luôn luôn dậy tôi không được coi thường khẩu súng.
 
Tôi chưa bao giờ thấy một thành phố to như Santa Fe.  Họa chăng chỉ thua có St Louis.  
Tôi đi chăn cho một đàn bò tương đối nhỏ.  Công việc nhàn hạ.  Mười đô một tháng, và khoảng hai tháng sau Logan Pollard đến gặp tôi.  
“ Cháu cần phải có giầy mới, áo mới.”  Ông nói.
Mua xong ông dắt tôi đến một tiệm Mễ quen biết, ăn một bữa cơm gà đậu đen.  Ông bắt phải lận súng trong quần trong suốt thời gian ở Santa Fe.
Có lần, trong khi đang chăn bò thì ông đến cho một cuốn sách.
" Đọc đi,” ông nói.  “ Đọc tối thiểu năm lần.  Càng đọc sẽ càng thấy hay hơn.  Cuộc đời của những vĩ nhân.”
“ Ai viết vậy?”
“ Plutarch,” ông nói,  
Thế là tôi bắt đầu đọc trên lưng ngựa.  


Rồi một ngày kia, trong khi tôi cho ngựa nghỉ dưới bóng cây thì hai thằng Mễ cưỡi đến, mặt mũi kên kên, đòi khám xét đàn bò.  
Một thằng cưỡi ngựa lùa đàn bò vây tròn, tôi liền nhét cuốn sách vào bao yên ngựa, nhẩy lên con Ô.  Tôi cũng run trong bụng.  Mất đàn bò này chỉ có nước chết.  Tôi phóng ngựa lùa đàn bò trở lại.  Thằng Mễ to con có sẹo trên mặt chửi thề phóng ngựa chạy theo.  Tôi rút khẩu Shawk & McLanahan ra khỏi lưng quần và thằng Mễ trố mắt, xì xồ tiếng Mễ và ghì cương ngựa lại.  Thằng Mễ kia từ xa chạy lại.  Nó khựng lại khi thấy khẩu súng, rồi ra vẻ quay đi.  Đột nhiên nó quật ngược roi da và khẩu súng bay đi.  Nó quật dây vào mặt tôi và đánh cho đến khi tôi ngã ngựa.  Nó nhổ nước miếng vào mặt tôi rồi lùa đàn bò và con Ô, và tôi nằm đó, không làm được gì.  


Khi dậy nổi thì toàn thân tôi ê ẩm và mặt mũi máu me.  Tôi kiếm được khẩu súng, đi bộ mười lăm cây số.  Tôi tìm được Pollard, đang chơi bài.  Ông xua tay nói, “ Lát nữa nha.  Đang bận. “


Những người đứng chung quanh nhìn cái mặt máu me, bộ quần áo bụi bặm của tôi.  Biết nói tổ cho chúng cười nên tôi mượn một con ngựa, đi tìm mấy thằng Mễ.  


Không những đã mất bò mà còn mất cả hình Mẹ, mất cuốn Plutarch, và mất luôn khẩu Joslyn nằm trong bao trên con Ô.  
Mãi đến đêm thứ ba tôi mới tìm ra chúng.   Chúng đang nghỉ chân cạnh một vũng nước có vài cây bông gòn mọc chung quanh.  Trời thì tối mà bụng tôi lại đói cồn cào.  Chúng đang đốt lửa nấu nướng ì xèo.  Tiếng lên cò của khẩu Shawk & McLanahan nghe vang vọng trong bóng đêm.   Tôi nói, giọng không to.  “  Ngồi đâu yên đấy, không cục kịch.  Tao đến lùa bò về.”
“ Thằng nhóc con,” Thằng Mễ mặt sẹo nói.  “ Bắn mẹ nó đi.  Bắn rồi chôn tại chỗ.  Họ sẽ tưởng nó trộm rồi chạy.”  
Thằng Mễ kia vừa đặt tay lên bá súng là tôi bắn nó gục tại chỗ.  Thằng sẹo nhào người tới và tôi chưa kịp bắn thì có hai tia lửa liên tiếp sẹt ra từ lùm cây.  Nó té úp mặt xuống rồi lăn qua một bên.  Một cái lỗ màu xanh nằm giữa hai con mắt.  


Logan Pollard đứng đó, một làn khói mỏng quyện lên từ nòng súng trên tay, mặt vẫn lạnh như tiền.  
“ Sao cháu không bảo chú hả Rye?  Mãi đến khi mấy thằng nói mặt mũi cháu đầy máu me thì chú mới biết để mà đuổi theo. “


Chúng tôi đến nhìn thằng Mễ tôi bắn.  Viên đạn chỉ hơi cao một chút xíu thôi.  Pollard ném cho tôi một tia nhìn lạ lùng, khó hiểu.   Rồi chúng tôi lùa bò về.  


Ngày hôm sau tôi xin nghỉ việc.  Với số tiền ba-mươi-hai đồng lĩnh được, cộng thêm tiền để lại của bố, tôi bỗng thấy mình giàu có.  Chúng tôi đi tiếp về hướng tây bắc, qua những vùng hoang dã, theo đường mòn Tây Ban Nha vòng chung quanh San Juan.


“ Mình đi California thăm Mary Tatum,” ông nói.  “ Rồi cháu có thể đi học.  Súng ống mãi không tốt.”
“ Tại tụi nó ăn trộm bò,” tôi nói.
“ Chú biết.”
“ Và hình má cháu.”
Ông liếc nhìn tôi.  “ À, thì ra thế.”


Và chúng tôi cứ thế mà đi mãi, đi băng ngang những sa mạc mênh mông và cắm trại cạnh những vũng nước.  Và mặt tôi đen sạm nắng.  Một buổi sáng tôi bảo Logan Pollard.
“ Hôm nay cháu được đúng mười bốn,” tôi nói.
“ Mới có mười-bốn tuổi đầu mà phải sống kiếp sống này,” ông nói.  “ Chẳng biết tình mẹ là cái gì.”


Ông là một người cẩn thận từ lời ăn tiếng nói cho đến lối đi lối đứng.  Cẩn thận cách giữ gìn súng và chăm sóc ngựa một cách kỹ lưỡng.  Dọc đường, ông nói về Shakespeare và Thánh Kinh, Plato và Plutarch.  Có cái tôi hiểu, có cái không.  Nhưng nghe cũng thấy có lý.  
Ông đến từ Virginia.  
“ Tại sao chú lại bỏ xứ mà đi?”
“ Chú giết một người trong một cuộc đấu súng tay đôi công bằng.”
Chúng tôi cưỡi tiếp vài cây số  trong im lặng.  Tôi thích ngắm nhìn bóng mây trên sa mạc.  “ Chú sắp lấy em gái của hắn.  Hắn không chấp nhận.”


Khi đến California là tôi bắt đầu đi học.
Logan ở lại một thời gian, và khi đi thì Mary Tatum có vẻ buồn.  
Nhưng đi chưa đầy một tuần thì ông trở lại, và khi tôi cưỡi ngựa vào thì nghe loáng thoáng tiếng ông nói bằng giọng nghiêm trọng.  “ Đã từng xảy ra, và có thể sẽ xảy ra lại.”
“ Không đâu, “ Mary nói.  “ Chỗ này yên tịnh.”
“ Thôi được,” ông nói.  “ Anh sẽ ở lại.”


Đông qua, hè lại, tôi bắt đầu đi làm, đốn gỗ và chăn bò.  Mùa thu và mùa đông tôi đi học.  Học toán đố và lịch sử.  Nhưng đọc Plutarch vẫn thú nhất.  
Một hôm Logan Pollard cưỡi ngựa đến thăm.  Tôi đang ngồi trên một khúc gỗ, mải mê đọc.  
“ Lần thứ ba,” tôi nói.  “ Cháu đọc chậm.”
“ Loại sách này phải đọc như vậy mới đã.”


Tôi bắt đầu cao lớn hơn.  Và không bao giờ bỏ bê việc tập bắn.  Tôi có khiếu bắn súng.  Khả năng tác xạ của tôi mỗi ngày mỗi thạo hơn.  Pollard không còn nói về súng và cũng không đeo súng bên ngoài.


Đó là những tháng ngày thần tiên.  Tôi thích hoạt động và bao giờ cũng dành thì giờ cưỡi ngựa vùng núi, đi tìm bò lạc, ngựa lạc, săn giết những con thú lăm le chực ăn bò ngựa.
Xuân đến và con Ô cứ nhìn tôi như năn nỉ.  Nó tưởng tôi sẽ thắng yên cương để đi xa.  Đó là mùa xuân tôi lên mười-lăm.  Cao hơn một mét tám nhưng trông vẫn còn gầy.  


“ Súng đâu?” Logan hỏi tôi.
Tôi rút trong quần ra khẩu Shawk & McLanahan của Bố cho.  
“ Bắn chưa?”
Tôi gật đầu đưa lên bắn bằng một động tác thuần thục.  Một trái tùng cách xa năm chục mét tan ra thành nhiều mảnh.  
Pollard nhìn tôi gật đầu.  “ Bắn khá đấy.  Hy vọng không phải dùng đến.”
Chúa Nhật sau ông làm đám cưới với Mary Tatum, và tôi đứng xúng xính trong bộ vét và áo cổ cồn mua ở tiệm.  
Khi ăn bánh cưới xong, Mary nói, “ Vợ chồng tôi muốn em ở lại, Rye.  Không có duyên làm mẹ thì thôi, làm chị vậy.”
Và tôi ở lại.


Hai tháng sau tôi cưỡi con Ô đi xuống phố.  Sáng hôm đó bầu trời trong xanh, mỗi cọng lá như một mảnh gương bé con.  Giòng nước suối chảy róc rách qua những hòn đá.  
Chưa bao giờ mà cuộc đời đẹp như vậy.


Tôi mặc bộ vét vì phải sẽ đi ăn tối trước khi về nhà.  Tôi vào tiệm mua bánh bít-qui với pho mai ra ngồi ngoài hàng ba ăn.  Trong khi đang ngồi ăn ngon ăn lành thì một gã to con cưỡi con ngựa trắng tiến lại.  Hắn có cái bụng phệ và chiếc áo dính đầy vết thức ăn.  Khi thấy con Ô thì hắn ghìm vội dây cương cho ngựa đứng lại.  
Hắn xuống ngựa và đi chung quanh con Ô.  Hắn liếc nhìn tôi, lúc ấy đang cúi gầm đầu ăn bánh.
“ Ngựa của ai đây?” hắn hỏi to.  Hai người cùng ngồi trên hàng hiên im lặng không trả lời.  Hắn nhìn tôi hỏi lại.  “ Ngựa của ai đây?”
Nhét vội miếng bánh qui cuối cùng vào mồm, tôi từ từ đứng dậy.
“ Của tôi đấy, McGarry.  Muốn cái gì?”


Mũi hắn nổi đầy gân xanh và to hơn là tôi nhớ, và đôi mắt ti hí trông giống con heo.  Hắn dáng to lớn dềnh dàng, tay áo trắng bẩn thỉu xắn ngang cùi chỏ, đôi giầy bốt to trầy trụa và mòn vẹt.  
“ Mày hả?”
“ Tôi đây,” tôi nói, lòng thù hận chợt nổi lên ào ào.
“ Tại mày mà sinh ra bao nhiêu chuyện.” hắn nói.  “ Từ hồi đó tới giờ tao xất bất sang bang cũng chỉ vì mày và cái con đĩ ngựa bồ của cha mày.”
Tôi đấm thẳng vào mồm hắn và hắn loạng choạng lùi ra sao, tí nữa thì té chổng vó.  Hắn đưa tay rút súng.
Tay tôi bỗng giật nảy lên và người hắn khựng lại.  Khẩu súng trên tay tôi giật một cái nữa và hắn chết trước khi té úp mặt xuống đất.  Trong khoảnh khắc trước khi hắn chết, tôi nhìn được vẻ kinh ngạc trong ánh mắt.  
Và tôi đứng đó với khẩu Shawk & McLanahan trong tay và Big Jack McGarry nằm chết sóng soài dưới chân tôi.


Chương 4



Mary Tatum đang cho gà ăn khi tôi cưỡi ngựa vào sân.  Bà ngước nhìn, đôi mắt tròn xoe, rồi bước tới gần khi tôi xuống ngựa.  
“ Cái gì vậy Rye?”
Tôi đứng đó, lòng chùng xuống, không muốn nói nhưng phải nói.  
“ Mary, “ tôi nói.  “ Cháu đã giết người.”
“ Trời ơi,” bà nắm cánh tay tôi.  
“ Cháu đã giết thằng Jack McGarry.”
“ Jack McGarry? Nó ở đây à?”
“ Phải.  Nó chưa kịp rút súng thì cháu bắn.”
“ Phải nói với Logan ngay.”


Logan không có vẻ ngạc nhiên.  Ông đứng nghe tôi thuật lại từ đầu tới đuôi.  
“ Nó rút súng trước?”
“ Dạ.  Súng ra gần khỏi vỏ, rồi cháu mới bắn.”
Mọi người im lặng trong bữa ăn tối.  Đầu óc tôi vẫn lẩn quẩn hình ảnh McGarry với bộ mặt còn sốc.  Tôi không còn ghét hắn và cũng hết muốn giết ai.


Chúng tôi ra ngồi ngoài hàng ba và Logan bắt đầu kể chuyện.  Thoạt tiên nghe như ông đang kể chuyện quá khứ thời còn trẻ, nhưng rồi tôi hiểu đây là một bài học.  
Ông giết người năm lên mười-chín.  Một thằng cờ bạc gạo.  Rồi ông bắn chết anh trai của bạn gái trong một trận đấu súng, vì thời đó, ai thách là phải đấu, kẻo không mang tiếng hèn nhát suốt đời.  
Sau đó ông bỏ xứ ra đi.  Ông giết bốn người và không bao giờ muốn giết ai nữa, ông nói. " Rye, con có khiếu với súng.  Ta chưa thấy ai giỏi bằng con.  Đó là một trách nhiệm, Rye. Thời này ai cũng đeo súng.  Có người giỏi có người không giỏi.  Cũng có người chỉ giỏi làm mộc như bố con.  Nhưng súng thì khác.”
Ông dừng lại một phút, nhìn hai bàn tay thanh tú, bàn tay của một người chơi vĩ cầm.  “ Có lúc phải dùng súng.  Cẩn thận.   Chỉ dùng khi bắt buộc.  Rút ra là phải bắn, bắn là phải chết.
Khi đụng mấy thằng Mễ thì con phản ứng hơi chậm.  Nếu không có ta thì con đã chết rồi.  Nhưng chẳng thà bắn chậm còn hơn bắn quá nhanh.  Nếu con giết nhầm người thì sẽ ân hận suốt đời.”


Khi trời sáng, khi tôi bước ra sân để thắng yên ngựa thì có một người đàn ông cưỡi một con ngựa khoang gầy ốm vào sân.  Ông có mái tóc bờm xờm và râu rậm.  Mũ ông nhỏ và trông ông có dáng tức cười, nhưng ngôi sao ông đeo trên ngực trông không tức cười chút nào.
Logan và Mary bước ra cửa.  Mặt bà trắng bệch vì sợ hãi, nhưng Logan trông bình thản như không có gì xảy ra.  
“ Tên tôi là Balcher,” ông nói trong khi móc trong túi ngực ra một nắm thuốc rê.  “ Cất thuốc trong túi áo ngực để không ai nghĩ mình rút súng.” ông nói mà cười cười.  “ Chẳng thích bị bắn nhầm.”
“ Ông cần gì?” Logan bước xuống bậc hàng ba.


Balcher nhìn ông lom lom.  “ Mèn ơi,” ông nói.  “ Sao hôm nay gặp toàn thứ dữ không vậy.”
Logan đứng lặng thinh, chờ đợi.  Balcher quay lại nhìn tôi.  “ Chú em mấy tuổi rồi?”
“ Mười-lăm.  Sắp mười-sáu.”
Ông đẩy cục thuốc rê trong má.  “ Nhưng chú em đã bắn như người lớn.  Chú em giết thằng cha hôm qua?”
“ Dạ vâng.”
Ông nhìn tôi chằm chằm.  “ Chú em có biết hắn trước đây?”


Logan chặn lời và kể lại đầu đuôi tự sự, không thiếu một chi tiết nào.
Balcher chăm chú nghe, lúc nhìn Logan, lúc nhìn tôi.  
“ Thế thì cũng chẳng trách chú em.  Gặp tôi, chắc tôi cũng bắn nó.” ông nói trong khi xoay người trên yên ngựa.  Nhưng chú em phải theo tôi. “
“ Đi đâu?” Mary nói.  “ Thầy thông cảm, nó như em tôi.  Đây là nhà nó.”
Lối bà nói làm tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ và tôi chỉ sợ mình dằn không được nước mắt.


“ Không có lựa chọn nào khác,” Balcher nói.  “ Tôi chỉ là một tay súng xoàng xĩnh.  Cách duy nhất tôi giữ yên vùng này là đuổi hết những sát thủ đi chỗ khác.  
“ Tôi chẳng có thù oán gì với chú em Tyler, nhưng tiếng đồn bay xa và sẽ có lắm tay súng khác muốn thử chơi thì phiền.  Đi xa là tốt nhất.”


Mặt trời chiếu rọi chói chan trên nền đất nện của nông trại.  Mùi cà phê thơm nực xông ra từ trong bếp.  Đây là nhà của tôi.  Căn nhà duy nhất trong một thời gian dài.  Và giờ tôi phải bỏ đi.
“ Nếu nó không đi thì sao?” Logan gằn giọng hỏi.
Balcher nhún vai.  “ Tôi không bắn lại nó.  Dân trong phố nói chưa thấy ai rút nhanh như chú Rye Tyeler này. Và bắn là trúng.  Nếu viên đạn không giết thì McGarry cũng chết vì ngạc nhiên.”
Balcher quay lại.  “ Này ông Pollard.  Tôi có nhiệm vụ giữ an ninh.  Tôi hy vọng chú em đi êm thắm.  Bằng không tôi lại phải về phố kiếm tám chín người vác shotgun đến đây giúp tôi thi hành phận sự.  Nhưng mình đâu muốn mất đi một ngày việc của họ, phải không ạ?”
“ Ông nói phải, ông Bacher,” tôi nói.  “ Tôi sẽ đi.”
“ Rye,” Mary phản đối.
“ Không còn cách nào khác Mary.  Không sao, cũng chồn chân chồn cẳng  lắm rồi.”


Trời tờ mờ sáng là tôi lên đường đi về hướng Thung Lũng Bất Ngờ, ngang qua dặng núi về phía bắc.  Tôi sẽ săn bắn, rồi tìm việc chăn bò trước khi về phía nam.  Tôi có hai-mươi-sáu đồng tiền riêng, và bốn-mươi đồng của Bố để lại.


Khó nhất là lúc từ giã Mary.  Bà hôn lên má tôi.  Tôi chưa được ai hôn bao giờ.  Một cảm giác dịu dàng còn vương vấn trên má, mãi khi vượt qua dãy núi mới mất dần.  
Logan cưỡi theo một quãng, rồi bắt tay nói.  “ Thỉnh thoảng ghé về thăm.  Đây lúc nào cũng là nhà của con.”
Đi khoảng hai dặm tôi thấy một người ngồi trên lưng con ngựa khoang.  Balcher mỉm cười nói với tôi.  “ Chúc chú em thượng lộ bình an.  Cẩn thận súng ống.”
Cho ngựa đi lững thững trên lối mòn mà lòng tôi dâng lên một nỗi buồn da diết.  Đây là lần thứ hai mà tôi phải xa rời những người thân yêu nhất của mình.  Lần đầu, mất Bố vì viên đạn của mọi da đỏ, lần này mất Mary và Logan vì viên đạn của chính tôi.
Bạn có biết vùng đất miền tây đó không? Những đồng bằng mênh mông và chỏm núi tuyết phủ?
Những giòng suối có hải ly, róc rách dưới ánh mặt trời?
Bạn có bao giờ được nghe tiếng gió thổi vi vu qua những hàng thông? Ngắm nhìn bóng mây in hình trên nền sa mạc? Có đứng trên đỉnh núi, nhìn giải đất trải dài hàng trăm cây số, nơi chỉ có mọi, hoẵng, và bò rừng?
Có bao giờ sáng sớm thức dậy, hít thở bầu không khí trong lành rồi nhúm lửa, pha cà phê và ngửi mùi khói gỗ bách hương?
Tôi đã sống đời sống như vậy cả năm trời, sau khi chia tay Mary và Logan.
Tôi đã đọc Plutarch lần thứ tư.
Một mình một ngựa, tôi đi khắp Washington, Oregon, Idaho, Montana, và xuống tận Colorado. .  Tối đến, tôi ngủ trong hang hóc, trên chạc cây, hay chống tạm căn lều kiểu mọi.  Tất cả những gì học hỏi của Logan Pollard tôi mang ra ứng dụng hết, và còn học thêm nhiều nữa.  Tôi đã trở thành một người khác.  
Rồi một ngày đẹp trời, tôi quyết định trở lại thế giới của loài người, và tôi cưỡi con Ô đi xuống núi.


Chương 5



Tôi mặc quần áo da ngựa.  Đôi bốt đã mòn vẹt nên đi giày da nai kiểu mọi.  Khẩu cạc-bin Joslyn vẫn máng bên yên ngựa và khẩu Shawk & McLanahan đeo bên hông.  Tôi đã mười-bẩy tuổi, cao trên một thước tám-mươi-lăm, và cân nặng tám mươi kí. Người tôi không một tí mỡ, rắn chắc như một con báo.


Và một ngày đẹp trời, tôi cưỡi ngựa chất đầy da thú, đi lững thững vào phố.
Đó là một thành phố hầm mỏ đang phát triển, hai bên đường đông nghẹt người.  Cái lạ là, trong những tháng ngày lang thang săn bắn trên vùng thượng du, tôi không có vấn đề gì với người mọi.  Bây giờ thì mặc dù rất vui đi giữa phố đông người nhưng sao lại cảm thấy ngại ngùng, không muốn nói chuyện với ai.  


Tôi đứng dựa cột ngắm nhìn thiên hạ và những cửa hàng dựng lên sơ sài tạm bợ, những khách sạn và quán rượu làm bằng thân cây.  Xa xa phía đầu đường, một người bán rượu whít ki, múc thẳng ra từ hai cái thùng tô nô.  


Một người đàn ông cao to mặt sạm, ngực đeo ngôi sao đi ngang qua.  Hắn nhìn tôi chằm chằm, đi qua rồi mà vẫn ngoái cổ lại.  Khi hắn đi mất dạng thì một thanh niên tiến lại gần, nói với tôi.  
“ Không biết ông bạn là ai, nhưng coi chừng đấy.  Ollie Burdette đã để mắt xanh đến bạn rồi.”
“ Rắc rối hả?”
“ Hắn là cảnh sát trưởng, bắn trước nói chuyện sau.  Tuần trước mới giết một thằng.”
“ Cám ơn.”
“ Tên tôi là Kipp.  Nhà ở phía đông.  Rảnh rỗi, ghé chơi.”
Nói xong nó bỏ đi, một thằng trẻ tuổi, mặt mũi lanh lợi.  Có thể hơi quá lanh lợi.


Đáng lẽ phải nên bỏ đi, nhưng mới về phố và chẳng có ý định sinh sự với ai, nên tôi qua đường, đi về hướng khách sạn.  Phòng ăn không đông nên tôi tìm một cái bàn trống ngồi xuống.  
Sau khi gọi thức ăn, tôi cầm tờ báo cũ đọc lướt qua.  Đọc sắp xong thì có tiếng người nói.  
“ Đọc xong cho tôi mượn lại được không?”
Ngẩng đầu lên, tôi thấy một thiếu nữ dáng người mảnh khảnh.  Trông nàng không tới mười-bốn, nhưng nàrng có đôi mắt đẹp và nụ cười dễ thương.
Tôi mắc cở, đứng vội lên.  “ Dạ vâng.  Tôi vừa đọc xong.”
“ Báo của Ba tôi.  Tôi bỏ quên trên bàn.  Không có là ổng giận chết.”
“ Xin lỗi.  Thế mà tôi đâu có biết.”


Bỗng có người đứng ngay bên cạnh.  Khi ngẩng đầu lên thì tôi chạm phải cặp mắt trắng dã của Ollie Burdette.
“ Có phải tên này đang làm phiền cô hả?”  Nói như sủa và giọng nghe thô kệch.  Giọng của một người muốn gây sự.
“ Không phải,” nàng vội mỉm cười.  “ Nhờ ông ấy giữ tờ báo cho chứ không đã mất rồi.”
“ Được rồi.”  Hắn quay đi một cách miễn cưỡng, sau khi trừng mắt nhìn tôi.  Một mặt tôi cảm thấy sợ hãi, tóc đàng sau dựng lên và miệng khô như rang, nhưng đồng thời tôi cũng nổi giận.  Thằng này rõ ràng muốn kiếm chuyện với tôi.  


“ Ông có cần việc không?”
Tôi quay lại,  nàng đang nhìn tôi bằng một ánh mắt nồng nàn.
“ Cha tôi đang cầrn người dậy ngựa.”
“ Thế thì còn gì bằng.  Nhà cô ở đâu?”
Nàng nói cho tôi biết, rôi thêm, “ Tên tôi là Liza Hetrick.”


Khi nàng đi khỏi và tôi ăn uống xong xuôi, tôi mới ngồi suy nghĩ.  Thằng Kipp nói phải.  Không thiếu thằng chuyên môn  sinh sự, có đứa vì thích giết người, có kẻ để phòng hậu hoạn, và lắm khi chỉ để lấy tiếng.  Nhưng tại sao lại là tôi? Có phải tại vì tôi chỉ là một thằng bé nhưng đã đeo súng như người lớn?
Thế nhưng ở miền viễn tây, tôi không còn là một thằng bé.
Mười-bảy tuổi đủ để đeo giầy người lớn và gánh vác trách nhiệm của người lớn.  
Nhưng ra khỏi thành phố vẫn hơn.  Khỏi phiền phức lôi thôi.  Chẳng cần phải cho người ta biết là mình ngon lành làm gì.  Tôi trả tiền rồi mở cửa đi ra.  
Burdette đứng trước tiệm hớt tóc cách đó một con đường.  Tôi xuống đường, ra ngựa.  Trong khi gỡ dây cương thì tôi nghe tiếng đế giầy của hắn đi lại.


“ Ê, tên kia.” Giọng hắn nghe chói tai.  “ Tao có gặp mày ở đâu rồi vậy?”
Tôi từ từ xoay người lại.  Tôi cảm thấy mình bỗng bình tĩnh một cách lạ lùng.
“ Chắc là không.  Tôi mới tới đây lần đầu.”
“ Tao đã gặp mày đâu rồi.”
Tôi ngồi trên lưng ngựa nhìn xuống.  “ Ông chưa bao giờ gặp tôi.  Ông Burdette.  Tôi chỉ là một thằng nhỏ, sống suốt đời trên núi.”
Nói xong tôi cho ngựa bước đi.  Nhưng hắn chưa xong.
“ Đợi đó.”
Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn.  Ngoài đường, tất cả những người chung quanh ngừng tay đứng nghe.  Cái cảm giác bình tĩnh một cách lạnh lùng vẫn còrn đó.
“ Sao mày biết tên tao?”  Hắn bước ra đường.
“ Tên ông, người ta nói.” tôi nói.  “ Người ta còn nói tuần trước ông vừa giết một người .”  


Không biết tại sao tôi lại nói vậy, nhưng tôi không muốn để người khác ăn hiếp mình.  
“ Đừng kiếm chuyện với tôi.  KIếm người khác mà giết.”
Và rồi tôi cưỡi ngựa ra khỏi thành phố.


Con đường mòn chạy quanh co giữa những dặng thông cao.  Ra khỏi thành phố độ sáu cây số thì tôi thấy một căn nhà làm bằng cây và một cái chuồng ngựa to, bao bọc bởi hàng rào chung quanh.
Môt con chó chạy ra sủa inh ỏi.  Rồi một người đàn ông cao nhưng hơi thô với mái tóc trắng như miến bước ra cửa.


“ Khách lạ nào thế.  Tên tôi là Frank Hetrick.”
“ Tên tôi là Ryan Tyler.  Tôi đến tìm Liza.”
Ông quay vào nhà.  “ Liza.  Có bồ đến tìm nè.”
Nàng chạy ra cửa, đôi gò má ửng hồng.  “ Papa.  Đừng nói vậy. Con nói Papa đang cần người.”


Hetrick nhìn tôi bằng cặp mắt màu xanh.  “ Cậu có biết dậy ngựa không?”
“ Dạ có.  Tôi dậy ngựa rất khéo.”
“ Tốt.” ông nói.  Xuống ngựa, vào nhà đi.”


Vào tới cửa, tôi lấy cái nón rách tả tơi ra và lùa ngón tay vào đầu tóc bờm xờm.  Sàn nhà có trải thảm và đồ nội thất đánh vẹc ni bóng loáng.  Ở những vùng đang khai khẩn, Ít thấy nhà nào lịch sự như vậy.  Trên tường có kệ chất đầy sách, và khi Hetrick ra nhà sau thì tôi bước lại để nhìn.
Có vài cuốn mà Pollard có từng nhắc tới.  Tacitus, Thucydides, Plato, và vài chục cuốn, phần lớn là sách về lịch sử.
Hetrick trở lại phòng và thấy tôi chú ý.  “ Cậu có vẻ thích sách hả? Có hay đọc sách không?”
“ Dạ không.  Nhưng tôi có người bạn hay nói chuyện về sách vở.”
Sau khi ăn tối chúng tôi ra ngồi ngoài hàng hiên và Hetrick đốt rơm đuổi muỗi.  Chúng tôi nói chuyện một lúc nhưng khói rơm còn tệ hơn muỗi nên chúng tôi đi vào trong nhà.
Liza ngồi bên cạnh, bắt đầu hỏi chuyện này chuyện kia và chẳng mấy chốc mà tôi đã bắt đầu rút ruột rút gan thổ lộ về Logan Pollard và Mary, về chuyện Bố tôi chết như thế nào.  Nhưng tôi không đá động đến những thằng Mễ ăn cướp bò, hay về McGarry.
Chẳng phải vì tôi muốn dấu diếm gì nhưng tính tôi vốn ít nói, và những chuyện đó dù sao cũng đã qua rồi.  Tôi không muốn người ta biết đến mình vì tài bắn súng, và vì tôi thích Hetrick và Liza.


Ngày hôm sau tôi bắt đầu làm việc với số lương bốn-mươi đồng một tháng.  Có một thằng Mễ khác cùng làm tên là Miguel.  
Ngày đầu Hetrick nhìn chúng tôi làm việc nhưng không nói gì.  Sau đó thỉnh thoảng ông mới ra.  Một ngày kia ông nói tôi.  “ Rye,” ông nói.  “ tôi thích lối làm việc của cậu.”
“ Cám ơn ông.”
“ Cậu làm nhanh nhưng cẩn thận.”
“ Ông chọn giống ngựa tốt.” Tôi nói.
“ Đúng rồi. “ ông trầm ngâm nhìn tôi, “ Có dòng có giống, nó cũng khác.”  Rồi ông bỗng đổi đề tài.  “ Nghe Liza nói cậu có lời qua tiếng lại với Ollie Burdette.”
“ Chẳng có gì quan trọng.”
“ Cẩn thận.  Nó là quân giết người. Thành phần nguy hiểm.  Tôi biết loại người như nó.  Loại người khát máu.”
“ Dạ vâng.”


Tháng sau Kipp ghé đến thăm hai lần.  Nó thích nói chuyện và nó thích bánh trái cây của bà Hetrick làm.  Hôm sinh nhật thứ mười tám của tôi nó cũng tới.  
Nó nhìn khẩu Shawk & McLanahan của tôi.  “ Bạn phải mua một cây Colt,” nó nói.  “ Bắn đã lắm.”
“ Có nghe người ta nói.” tôi công nhận,  “ Tôi cũng muốn một cây.”


Sáng hôm sau khi chúng tôi ra ngoài, chín con ngựa tốt nhất của Hetrick đã bị trộm mất.
Dấu chân còn sờ sờ chung quanh chuồng nơi chúng tôi giữ ngựa mới huấn luyện.
“ Tối thiểu là hai đứa,” tôi nói.  “ Có thể nhiều hơn.”
Kipp đến chơi tối hôm trước, và khi tôi vào chuồng thắng yên cương, nó cũng đòi đi theo.  
“ Tôi đi với bạn,” nó nói.  “ Ba vẫn hơn hai.”


Đọc dấu chân là chuyện dễ dàng vì tôi đã sống như một người mọi da đỏ quá lâu.  Chúng tôi phóng ngựa như bay về hướng đồng không mông quạnh.  
Hetrick có khẩu súng trường mới toanh và Kipp thì súng ống đầy mình.
Còn tôi, vẫn còn cây Joslyn, và mặc dù nó đã mòn nhẵn, nhưng tôi đã quá quen thuộc và có thể sai khiến nó theo ý của mình.


Lũ cướp cưỡi ngựa dọc theo con suối nhiều cây số nhưng tôi vẫn có thể thấy được dấu chân để lại trong lòng suối.
Và chúng tôi lần theo dấu chân ngựa cho đến khi chúng ra khỏi suối và đi ngang một vùng đồng bằng cát.  Ngày thứ tư thì chúng đi chậm lại.  Chúng tôi bỗng ngửi thấy mùi củi đốt, và bắt đầu dắt ngựa, đi bộ.  Chúng tôi đi xuống một con dốc dài đầy thông, và rồi thấy đám lửa dùng để đóng dấu ngựa.


Chúng đang bận nên không để ý sự hiện diện của chúng tôi, và mãi cho đến khi ngựa hí thì một thằng làm rơi cây sắt dùng để đóng dấu, một làn khói mỏng bốc lên từ đám cỏ nơi miếng sắt nóng rơi xuống.
Chúng nó có bốn thằng.  Chúng tôi có ba người.  Chúng đứng đợi trong khi chúng tôi dắt ngựa tiến tới.  
Bốn thằng ngưu đầu mã diện.  
Một đứa có mặt lưỡi búa, tóc dài chấm cổ, quần sọc xám nhét trong đôi giầy bốt.


“ Hình như mấy chú bắt lầm ngựa thì phải,” tôi nói.
Thằng to con, râu đen nhìn một cách lo lắng về hướng thằng mặt búa.  Bàn tay nó hờm sẵn cạnh bao súng.  
“ Mày nghĩ vậy hả?”  Mặt Búa nói.
Một thằng nữa trông có vẻ có máu da đỏ, một thằng cằm bạnh, mặt mẹt và mặc áo gi-lê.


“ Ngựa của ông Hetrick đây.  Tôi huấn luyện chúng.  Chúng tôi sẽ lấy về.”
“ Ngon vậy đó?” Mặt Búa toét miệng cười để lộ hàm răng cái còn cái mất.  “ Tụi mày không gần nhà, mà tụi tao đông hơn.  Có nghĩa là tụi tao giữ mấy con ngựa.”


Chẳng ai để ý đến Hetrick và Kipp.  Và tôi lại cảm thấy cái cảm giác cô đơn ấy.  Cảm giác có chuyện sắp xảy ra, cảm giác sẵn sàng.  
“ Không,” tôi nói, chọn lựa lời nói kỹ lưỡng.  “ Tụi mày đông hơn thật, nhưng ngay bây giờ chỉ có tao với mày.”


Hetrick có vợ có con, và tôi biết ông không phải là một tay xạ thủ.  Tôi muốn giải quyết càng nhanh càng tốt.  Tốt hơn hết là giữa tôi và nó.  Mấy thằng kia trông không có vẻ muốn dự phần.  


Mặt thằng mặt búa bỗng đanh lại, nó không ngờ sự việc biến chuyển như vậy.  Con Ô lững thững hai bước rồi dừng lại.  
“ Đúng thế,” tôi nói chậm rãi.  “ Tụi tao sẽ bắt ngựa lại.  Mày đụng tới súng, tao giết mày liền.”
Tôi chưa bao giờ nói chuyện như vậy và không biết lòng tự tin ở đâu mà ra.
Mặt Búa có vẻ phân vân.  Nhưng nó vẫn tự tin.  Và tôi cho nó thời giờ suy nghĩ.  Nhưng tôi có cảm tưởng là thằng này đã từng sử dụng súng.  Và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng vì không thể nào rút lui được.  Vì đây là ngựa của chúng tôi và để chúng lấy thì không đáng được gọi là thằng đàn ông.
“ Ông Hetrick,” tôi nói.  “ Ông và Kipp bắt đầu gom ngựa lại.”
“ Đ.m mày.” Mặt Búa chửi thề.
Thằng Lùn nhúc nhích và Mặt Búa tưởng nó bắt đầu hành động.  Tay nó đưa ra phía sau và tôi bắn nó.


Viên đạn xuyên qua túi áo ngực của nó.  Viên đạn thứ hai nhích xuống thấp hơn một phân.
Súng nó chưa rút ra khỏi vỏ hoàn toàn nhưng nó như dợm bước tới.  Và nó đã chết.
Tiếng một con quạ kêu từ ngọn cây trên dốc.  Một con ngựa dậm chân.  Mấy thằng kia đứng như trời trồng, không thể động đậy.  Không dám động đậy.
Và thế là xong.  Súng tôi đã ra khỏi vỏ.  Chúng không còn lựa chọn nào khác.
“ Tôi sẽ gom ngựa vào,” Kipp nói.
Hetrick xuống ngựa.  “ Rye,” ông nói.  “ Mình phải tước súng của chúng.”
“ Phải rồi.” tôi nói.
Thằng lùn nhìn tôi.  “ Rye,” nó nói.  “ Tao chưa nghe tên đó bao giờ.  Mày có biết mày vừa giết ai không?”
“ Một thằng ăn cắp ngựa,” tôi nói.
“ Mày đã giết Rice Wheeler,” nó nói, “ Tay súng cự phách  vùng Panhandle.”
“ Đáng lẽ nó nên ở lại Panhandle,” tôi nói.

Chương 6



Chuyến về chỉ mất có hai ngày vì không phải theo dấu chân ngựa và có thể đi băng ngang sa mạc.  Ngày thứ hai, trong khi chúng tôi dắt ngựa trèo lên hẻm núi dài thì Kipp nói, “ Thằng Wheeler đó đã từng giết chết sáu, bẩy người.”  Không ai nói gì, và nó nói tiếp.  “  Để tao về nói cho thiên hạ biết.  Cho thằng Ollie Burdette xanh máu mặt luôn.”
“ Đừng có nói năng gì hết.” Hetrick giận dữ nói.  “ Phải giữ kín chuyện này. “
“ Tại sao? Đâu phải ai cũng hạ được thằng Rice Wheeler?”
“ Cậu không biết tâm lý mấy tay súng,” Hetrick nói một cách bực dọc.  “ Càng như vậy thì thằng Burdette càng săn lùng thằng Rye hơn.”
Kipp chỉ miễn cưỡng đồng ý sau khi tôi nói.  “ Tôi không muốn người ta nói chuyện đó về tôi.”


Và một thời gian lâu sau không ai đá động đến chuyện đó nữa.  
Có những buổi tối chúng tôi ngồi quanh bàn ăn trò chuyện, và tôi kể họ nghe thời còn sống một mình trong núi và về những nơi chốn đã qua.  Có lần tôi ra bọc yên ngựa lấy hình Mẹ cho họ xem.  Mẹ tôi trông rất đẹp.  Khi chụp hình mới có hai mươi tuổi.


Bà Hetrick nhìn chăm chú một hồi lâu rồi hỏi.
“ Cháu có biết gì về gia đình bên ngoại không?”
“ Dạ không.  Bố cháu nói lúc họ lấy nhau thì họ ngoại từ mẹ cháu...họ cho là bố cháu nghèo không đủ tiền lo cho gia đình.  Nhưng mà Bố Mẹ cháu rất hạnh phúc.”


Bà Hetrick đặt tấm hình xuống.  “ Cái áo mẹ cháu mặc… không phải là của rẻ tiền đâu.”
Tôi chẳng biết gì về quần áo.  Cái nào cũng như cái nào đối với tôi.  Đàn bà thì khác.  Họ để ý kĩ mấy thứ đó.  Vài ngày sau tôi nghe loáng thoáng tiếng bà nói với Hetrick.  “ Chưa thấy đâu có vải voan đẹp như vậy.   Thế mà thằng bé không biết gì về gia đình của nó.  Tội quá.”


Có khi tôi và Liza ngồi thủ thỉ trước nhà hay bên cạnh chuồng ngựa.  Nhưng lúc nào cũng đường đường chính chính, không lén lút.  Nàng tuy đẹp nhưng vẫn còn nhỏ tuổi.  Còn tôi, tôi đã mười-tám, sắp lên mười-chín.
Chúng tôi nói chuyện trai gái.  Nói về những giấc mơ, về một căn nhà lý tưởng.  Có tiền cũng tốt, nhưng không có cũng chẳng sao.  Nàng tròn xoe đôi mắt ngồi nghe, nhất là khi tôi nói về những núi non hùng vỹ ở Wyoming hay những khe núi sâu thắm thẳm ở Utah.


Có hai lần tôi vào thành phố nhưng chỉ thấy Burdette có một lần.
Lần kia thì hắn đang bận truy lùng một thằng sống ngoài vòng pháp luật.  Cuối cùng hắn trở về phố, dắt theo một con ngựa không người cưỡi.  


Lần tôi thấy hắn, tôi vừa bước ra khỏi tiệm, chất đồ tiếp tế lên xe ngựa.  Hắn lại xem.
“ Nghe nói giờ chăm ngựa cho Hetrick hả?”
“ Đúng vậy.  Ngựa tốt.”
“ Nghe nói bị cắp mất.”
“ Kiếm lại được rồi.”
“ Có vấn đề gì không?”
Hắn nhìn tôi soi mói.  Tôi nghĩ hắn có nghe phong phanh nhưng hoặc không chắc hoặc không tin.
“ Chẳng có gì đáng nói.”
“ May cho mày đó.  Nghe nói Rice Wheeler đang lẩn quẩn vùng núi này.”
Đến lúc đó tôi đã ngồi trên ghế xe.  Liza ngồi bên cạnh bật miệng.
“ Hết lẩn quẩn rồi.” nàng nói, và trước khi hắn có thể hỏi thêm, tôi đánh xe rời khỏi thành phố.
“ Đáng lý em không nên nói,” tôi nói nàng.  “ Giờ nó sẽ điều tra ra cho bằng được.”
“ Em không cần biết,” nàng nói một cách xấc xược.  “ Em không thích hắn.”


Tôi thích đánh xe trên con đường mòn trong khi nói chuyện với Liza.  Chẳng bao giờ thiếu chuyện để nói.


Rồi cũng đến lúc tôi phải ra đi.  Hetrick có một bầy ngựa giống loại tốt và có thể sẽ gầy dựng sự nghiệp khả dĩ.  Có người đi tìm vàng, có người mở quán rượu hay sòng bài, và có người gầy dựng nông trại và gây giống ngựa.  Đây là một công việc vững chắc và lâu bền.
Nhưng một khi bầy ngựa đã thuần thục thì ông sẽ không cần đến tôi nữa, và đã đến lúc tôi phải đi tìm sự nghiệp cho bản thân.  Phải đi tìm một cái nông trại trong một trong những thung lũng xanh tươi mà tôi đã từng đi qua.


Rôi một ngày tôi đến gặp Hetrick.
“ Xong việc,” tôi nói.
Ông mở ngăn kéo trả tiền cho tôi.  Chưa kể tiền lương, tôi đã có bẩy mươi đồng.  Và tôi vẫn còn bốn mươi đồng của Bố để lại mà tôi may vào đai súng.
“ Phải chi có thể giữ cháu ở lại được.  Hiềm cái không còn việc nữa.”
“ Cháu biết.”
“ Khi nào rảnh, ghé đây chơi.  Cô chú rất quí mến cháu.”  Ông đóng ngăn kéo lại.  “ Có kế hoạch gì không?”
“ Dạ, Cháu nghe nói có chỗ đào được vàng vùng Lạch Liễu.  Có thể cháu làm thử coi.  Rồi...một khi yên ổn, có thể cháu sẽ bắt đầu mở trại.”
“ Cái đó tốt đó.”  Hetrick do dự, rồi nói,  “ Này cháu, ra phố phải cẩn thận.  Thằng Kipp say rượu rồi phun hết cho Burdette nghe.  Burdette đã  biết cháu là người giết Wheeler.”
“ Vậy à.”
“ Ờ.  Mà rồi con Liza thú nhận chính nó cũng để lộ ra.”
“ Không có gì đâu chú.  Cháu không trách Liza đâu.”
“ Phải cẩn thận.” ông rút ống tẩu và cho thuốc vào.  “ Rye, coi chừng nó.  Nó giết ba người ở khu Thập Tự.   Nó thủ đoạn lắm đó.”
“ Dạ vâng.  Nhưng cháu không tính chuyện ở lại đây.”


Sáng hôm sau, sau bữa ăn sáng, tôi cưỡi ngựa ra đi.  Liza không ra từ giã, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng khóc ở phòng kế bên.  Tôi biết mình sẽ nhớ nàng lắm nhưng biết làm sao bây giờ.
Lạch Liễu cách đó khoảng năm mươi cây.  Khi tới đó, tôi đi dọc con lạch, kiếm chỗ đãi vàng.  Đây là lần đầu tôi đi tìm vàng, nhưng tôi đã từng nghe người ta nói nhiều về cách thức sàng vàng.
Công việc lẻ loi và cực nhọc.  Vùng tôi chọn là khúc uốn của con lạch.  Tôi tìm thấy một ít màu sắc.  Tôi cắm một cái máng xuống nền đá và bắt đầu sàng lọc.  Sau hai tuần làm việc cật lực, tôi kiếm được khoảng chín mươi đô.
Tuy không là bao nhưng vẫn hơn đóng dấu bò.  Kể từ khi gặp gia đình Hetrick, tôi quên mất cái đời sống một thân một mình.  Họ là người tốt và tôi nghĩ nhiều về Liza.  Tôi nhớ da diết giọng cười và đôi mắt làm ấm lòng người của nàng.


Tuần sau tôi đào cái rãnh trong nền đá và lấy ra được hơn hai trăm đô trong vòng hai-mươi phút.  Rồi tôi bắt đầu di chuyển lên thượng nguồn.  Khi hết thức ăn thì đi săn.  Tôi giết một con nai sừng và ướp thịt làm khô nai.  Thỉnh thoảng tôi bắt được cá.  Tôi đã quá quen với nếp sống ngoài thiên nhiên này rồi.
 
Không mấy người qua lại.  Có lần, có vài  người mọi thuộc bộ lạc Utes ghé ngang và tôi cho họ ít cà phê.  Khi đi, họ chỉ tôi đến một khúc lạch trên cao.
Ngày hôm sau tôi lên thượng nguồn và tìm thấy vùng họ tả.    Đó là một khúc lạch nằm ẩn dưới những rặng thông.  Nơi đó có hai cái máng cũ đã sụp và một cái xẻng đã mất cán.
Khi tôi vét sạch cái máng thì tìm được mười-hai đô trong vòng vài phút.  Cái máng thứ hai cho tôi hai-mươi-sáu đô.  Không làm giầu nhưng chắc chắn là nhiều tiền hơn trước.  
Cuối tuần tôi chất dụng cụ và thắng yên cương.  Con Ô nay hơi mập và chảnh nên tôi đi chầm chậm về vùng Thập Tự.
Tôi vẫn đội cái nón đen và mặc bộ quần áo da ngựa.  Tôi hoàn toàn không có ý định kiếm chuyện, nhưng nhớ lời Hetrick dặn, tôi đeo khẩu Shawk & McLanahan vào.
Khi tôi ghé vào nhà băng, Burdette đang đi xuống đường, và khi họ cân xong vàng và trả tiền thì tôi có $ 462, chưa kể $ 50 tiền lương của Hetrick.
“ Làm ăn khấm khá nhỉ?”  Burdette nói.
“ Cũng được.”
“ Mày là người giết Wheeler?”
“ Ừ.”


Hắn nhìn theo trong khi tôi trèo lên mình ngựa cưỡi về hướng Hetrick.  Ở đầu phố, tôi mua ít ruy-băng cho Liza, và tôi cũng để dành cho nàng một cục vàng nhỏ.


Nàng chạy ào ra cửa khi thấy bóng dáng con Ô đến từ xa.  Nàng đu người lên bàn đạp theo tôi về tới sân.  Bà Hetrick đứng ở cửa, lau tay trên tạp dề, và Hetrick đi vào từ hướng chuồng ngựa, nụ cười rộng nở trên môi.  Tôi cảm thấy nghẹn ngào.  Chưa bao giờ có người mừng đón tôi trở lại như vậy.  Suốt đời tôi, tôi luôn luôn là một kẻ xa lạ.
Tôi cảm thấy thích thú được dịp đi quanh nhà và thăm mấy con ngựa.  Một con ngựa giống Appalousa cao lớn, chạy dọc theo hàng rào đi theo, hí hó om sòm, mặc cho con Ô bực bội.  
Trong khi chúng tôi đợi bữa ăn tối dọn ra thì Hetrick đột nhiên hỏi, “ Cháu có gặp Burdette không?”
“ Có gặp hắn.”
“ Có chuyện gì không?”
“ Không.”
“ Nó muốn mua ngựa, nhưng chú từ chối không bán.  Chú đã thấy lối nó đối xử với ngựa.”


Điều đó một mặt làm tôi hài lòng nhưng cũng khiến tôi hơi lo.  Tôi chẳng muốn những con ngựa mà mình đã bỏ bao công dậy dỗ lọt vào tay Ollie Burdette, một người mà theo lời của Hetrick, thô bạo đối với ngựa.  Nhưng tôi lo vì tôi biết tính thẳng thừng của Hetrick, chắc chắn đã nói bộc toạc những điều mình nghĩ với Burdette.


Bà Hetrick trải một tấm khăn lịch sự lên bàn.  Tôi cố vuốt thật kĩ cho tóc tai ngay ngắn rồi ngồi xuống bàn.  Tôi chưa bao giờ có một bữa ăn ngon như vậy.
Kipp cưỡi ngựa đến khi tôi còn đó, hắn phấn khởi vì số vàng tôi lọc được, nhưng tôi biết nó sẽ không quen với công việc nặng nhọc.


“ Thằng Burdette,” Kipp bỗng dưng nói.  “ Tao không nghĩ nó sánh được với mày.  Nó kể cũng nhanh đấy, nhưng không bằng mày.”
Hetrick cau mày vì không thích nói chuyện đấu súng.  Kipp lại lúc nào cũng kể chuyện nào là Clay Allison, nào là tay súng vùng Cimmaron, hay anh em nhà Earps, Bill Longley, Langford Peel, hay John Bull.


“ Mày không thua thằng nào,” nó nói, sự khích động hiện rõ lên nét mặt.  “ Tao muốn thấy mày so tài với Hardin, hay thằng cha Bonney, dưới New Mexico.


“ Kipp,” Bà Hetrick lộ nét mặt kinh hoàng.  “ Bộ cậu thích xem người ta giết nhau lắm hay sao?”
Nó tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi đỏ mặt.  “ Không phải vậy,” nó nói vội.  “ Tôi chỉ muốn xem ai bắn giỏi hơn thôi.”
Lối nói chuyện kiểu đó làm tôi lo lắng.  Nhiều khi người ta giết nhau chỉ vì những lời khích bác của những kẻ bàng quan.
Mà Kipp không phải là người duy nhất.  Khi tôi vào phố cũng đã nghe người ta bàn tán xôn xao, ai giỏi hơn ai, tôi hay Burdette.  Cũng chẳng phải là họ khát máu gì cho cam, họ chỉ thích một trận đấu, và nhiều khi quên đi rằng trận đấu thì phải có một mất một còn.


“ Cháu sẽ đi xa,” tôi chợt nói.  “ Chắc đi về miền đông.  Có thể đi xem St Louis hay Kansas City.  Có thể New Orleans.”
“ Cháu có tính đi tìm gia đình họ ngoại không?” Bà Hetrick hỏi.
“ Chắc không.  Họ đâu có muốn tìm cháu đâu.”
“ Biết đâu đó,” bà phản đối.  “ Có thể họ nghĩ cháu đã chết.  Hay có thể họ không biết gì về cháu không chừng.”
“ Cũng chẳng sau.  Họ đâu có yêu thương gì Má đâu.  Nếu có đã không từ con như thế.”
“ Có thể họ hối hận, Rye.  Con người ai chẳng lầm lỗi.”


Tôi quyết định để con Ô ở lại.  Nó đã đến tuổi về hưu rồi.  Hơn mười một tuổi chứ ít ỏi gì. Tôi sẽ cưỡi một con ngựa của Hetrick qua núi sang đón xe lửa, rồi sẽ bán ngựa ở đó.  Hetrick muốn mua con Ô vì nó lành tính, sẽ là con ngựa lý tưởng cho Liza.  Vả lại nàng cũng thích nó.


Sáng hôm sau tôi thắng yên ngựa lên đường.
Burdette đang đứng giữa đường khi tôi cùng với Hetrick cưỡi đến ngã tư.  Hắn thấy chăn tôi cuộn sau yên.
“ Đi hả?”
“ Về miền đông,” tôi nói.  
“ Đừng léo hánh vào khu Dodge.  Ở đó nó ăn gỏi mấy thằng con nít như mày.”


Cơn giận bỗng ùn ùn nổi lên trong người tôi. Tôi quay lại nhìn hắn.
“ Thế mày có muốn ăn gỏi tao không?”
Hắn ngạc nhiên đến sững sờ, nhưng chúng tôi chỉ cách nhau không tới hai mét.  Nếu rút súng thì không tài nào trệch được.  Tôi bước lại gần hơn.  Biết là điên rồ nhưng vẫn cứ làm.


“ Có thèm gỏi không?” tôi lập lại.  “ Có muốn ăn gỏi thằng này không?”
Hắn lùi bước, mặt xanh như chàm.  Tôi biết hắn không sợ.  Nhưng bắn nhau lúc này thì cả hai đều chết.  Hắn không sợ nhưng già dặn kinh nghiệm hơn tôi.  Còn tôi thì đã nổi cơn điên lên rồi.


“ Bất cứ lúc nào,” tôi nói.  “ Lúc nào cũng được.”
Đôi mắt trắng dã đó bốc lửa thù hận.  Hắn muốn rút súng lắm.  Nhưng hắn bỗng phá lên cười.
“ Mày hiểu lầm rồi.  Tao nói giỡn chơi mà.”
Nhưng hắn chẳng đùa tí nào.  Chỉ có cái chưa phải lúc thôi, và Ollie sẽ đợi thời cơ khác.
“ Vậy hả,” tôi nói.  “ Thôi bỏ qua nha.”
Thế là tôi phóng ngựa ra khỏi thành phố.  Khi tôi quay lại, Ollie Burdette vẫn còn đứng đó, nhưng Hetrick đã đi mất rồi.
Ngay lúc đó tôi có linh tính là thế nào tôi với nó cũng sẽ có ngày tái ngộ.
Và lúc đó sẽ khó có thể tránh khỏi chuyện một mất một còn.


Chương 7



Khu Phố Chợ thành phố Kansas City đông nghẹt người chen lấn ồn ào.  Tôi mải mê ngắm nhìn những xe chở bia kéo bởi đoàn ngựa loại Clydesdale oai vệ và những cỗ xe ngựa thanh lịch kéo bởi những con tuấn mã.  
Không thấy ai đeo súng bên ngoài, và do đó tôi lận khẩu súng vào lưng quần và cứ thế mà đi dạo khắp phố phường.  Tôi ghé vào một tiệm may, đo cắt hai bộ com lê, một bộ màu xám, một bộ màu đen.  Tôi mua một cái mũ trắng, vài cái áo sơ-mi có xếp đăng-ten giữa ngực, và dăm cái ca-vát nhỏ bản.  Và sau khi tôi sỏ chân vào đôi dầy bốt làm bằng da bò vào thì bỗng thấy mình cũng kẻng ra phết.
Tuy mới mười-chín nhưng trông tôi già dặn hơn nhiều. Tôi nặng khoảng tám mươi kí, người không có một tí mỡ.  Đi đường lắm khi con gái hay quay lại ngoái nhìn.  Tôi vẫn đeo khẩu Shawk & McLanahan, lắm khi muốn mua một khẩu mới, nhưng lại tiếc tiền nên thôi.  


Có lần khi dạo phố, tôi thấy một đám đàn ông đứng ngồi tại băng ghế dài.  Khi lại gần thì nghe thấy họ đang nói chuyện súng ống.  Hôm ấy trời nắng ấm nên nhiều người cởi áo khoác ngoài ra.  Có một ông có ria mép, tướng tá cao to, tóc phủ ngang vai, trông khá ngon lành.  Tôi thấy hắn thỉnh thoảng lại liếc nhìn tôi.
Một anh trẻ tuổi đứng cạnh, nói thầm vào tai tôi,  “ Wild Bill đang thắc mắc anh là ai.”
“ Wild Bill? Wild Bill Hickok?”
“ Chính hắn.  Một tay súng cừ khôi.  Này, ăn chưa?  Tôi đói rồi”
Thế là chúng tôi cùng đi.  Hắn là một thợ săn bò rừng, đến Kansas City với ba ngàn đồng tiền da bò.
“ Tên tôi là Dixon, Billy Dixon.”
“ Tên tôi là Ryan Tyler.  Đến từ...Colorado.”
Sau khi ăn, chúng tôi đi coi show.  Sau đó, chúng tôi gặp một anh chàng đô con, lớn tuổi hơn chúng tôi, quen biết với Dixon.  Tên hắn là Kirk Jordan.


Sau vài ngày, túi tiền của tôi bắt đầu vơi dần và tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện ra đi.  Một hôm, trong khi đang ngồi ở quảng trường thì một người mặc áo khoác màu đen có vẻ để ý đến tôi.  Tôi là thợ săn nên nhìn mấy thằng đi săn là biết liền.  Không biết thằng này đang muốn dở trò gì đây.  
Hắn ngồi xuống cạnh tôi, và sau vài phút, bắt đầu tán chuyện.  Nói vòng vòng rồi cuối cùng hắn rủ tôi chơi xì phé.
Tuy tôi không phải là dân chuyên nghiệp, nhưng Logan Pollard đã từng dậy tôi chơi phé.  Và ông dậy thủ thuật của mấy thằng cờ gian bạc lận.  Pollard là một tay chơi bài thuộc hàng cao thủ.  Còn tôi, tôi vừa học lẹ mà lại còn nhanh tay nhanh mắt.
Xì phé không phải là một  trò chơi lịch sự.  Đánh phé là phải ăn tiền.  Tên này nhìn tướng tá, biết tôi là một thằng nhà quê ra tỉnh; quần áo mới mua, bọc tiền đút túi.


“ Tôi không biết chơi bài,” tôi nói với điệu bộ nhát nhúa, “ Nhưng mấy anh chơi thì tôi coi.”
“ Thế thì đi.”
Chúng tôi bắt đầu, và tôi liếc thấy Hickok và Jim Hanrahan và vài người nữa nhìn theo mỉm cười.  Họ nghĩ là hôm nay tôi sẽ học được một bài học đắt tiền.


Có năm người ngồi chơi, một đứa trông có vẻ là dân săn bò rừng.  Sau một lúc, tôi nhập bọn.
Chúng cho tôi ăn vài ván.  Mỗi lần ăn không bao nhiêu nhưng đủ để gấp đôi số tiền vốn của tôi.
Tôi chơi tưới sượi bất cần, để dọ xét tình hình.  Tôi thấy chỉ có hai người không phải là dân chuyên nghiệp.  Thằng săn bò rừng tên là Billy Ogg, và một tên nữa là tài xế xe song mã ở Texas.
Ván thứ năm, tiền sòng lên khá nhiều và tôi thua.
Tới phiên tôi chia, tôi làm bộ gom bài một cách vụng về, nhưng rút được hai con ách dưới đáy tụ.  Rồi tôi nhét một con ách nữa dưới đáy tụ và để dành ở đó.  
Woods, cái thằng dụ tôi chơi, tố năm đồng.  Tôi theo và tố ngược lại.  Woods tố thêm và tôi theo.  Cuối cùng thì ba con ách của tôi thắng hết.
Woods không nói gì nhưng mặt mũi có vẻ hầm hầm, và một thằng khác, một tên mập và bẩn thỉu, lầm bầm trong miệng.  Ván ấy, số tiền cược lên tới hơn bẩy chục đồng.  
Chúng tôi chơi độ hai tiếng, và tôi đánh rất cẩn thận.  Tôi thắng khoảng bốn trăm đồng và thằng Woods giận tím mặt.


Tôi đẩy ghế đứng dậy nói, “ Phải đi ngủ.  Không chơi nữa.”
“ Đâu có nghỉ được.” Woods nói.  “ Anh ăn hết tiền chúng tôi.”
Tôi mỉm cười nói.  “ Mấy anh đâu có ngờ vậy, phải không?”


Mặt thằng Woods đỏ rần lên và tay thằng mập thả xuống đùi.  Nhưng tôi đã thấy khẩu súng đó dấu dưới miếng khăn cả tiếng trước rồi.  Tôi chỉa khẩu Shawk & McLanahan vào mặt chúng và bước một bước ra đàng sau.
“ Mày,” tôi chỉ thằng Ogg.” Mày và thằng kia đã bị chúng lừa.  Hai thằng mày lấy đống tiền cược.”
“ Giỡn mặt sao mày,” Thằng Woods bắt đầu đứng lên.
Tôi chỉ họng súng về phía nó.  “ Tao bắn chết mẹ mày ngay bây giờ,” tôi nói một cách từ tốn.  
Ogg và thằng đánh xe gom đống tiền và đi ra cửa.  Khi ra tới cửa thì Billy Ogg rút súng ra.  
“ Đi Tyler.  Thằng nào lạng quạng tao cũng cho nó một viên kẹo đồng.
Thế là ba thằng tôi cùng bước ra ngoài.  Thằng đánh xe tên là Johnny Keeler.  Tụi nó chia nhau một ngàn đồng và nhất định bắt tôi phải lấy hai trăm đồng còn lại.  Tôi không chịu.
Ogg nhìn khẩu Shawk & McLanahan một cách ngờ vực.
“ Cái đó có bắn được không? Tưởng người ta không còn làm mấy thứ súng đó nữa chớ.”
“ Còn xài được.”
“ Tao bắt đầu hiểu ra rồi,” thằng Keeler nói bất thình lình.  “ Mày là Rye Tyle ,tay súng Colorado.”
“ Tao có  đến từ Colorado,” tôi nói.
“ Mày đã giết Rice Wheeler?”
“ Nó ăn cắp ngựa của chủ tao.”
Billy Oggs nhìn tôi nói.  “  Bữa trước Hickok nhìn qua là đã nói mày có tướng của một tay đấu súng.”
“ Mày phải xuống gặp anh em,” Keeler nói.   “Wyatt Earp có mặt trong phố.”
“ Tao phải đi New Orleans.” tôi nói.


Sáng sớm hôm sau tôi thức dậy, tắm rửa, cạo râu và mặc quần áo.  Đang lúc xếp đồ thì có tiếng gõ cửa.  Khi tôi mở cửa thì có một người đứng đó với một cái hộp trong có đựng một khẩu súng trường.  Đó là một khẩu Henry 44 ly tự động mới toanh, hạng nhất.
Trong cái hộp lại còn có hai khẩu Smith & Wesson kiểu Nga.  Đây là loại súng lục khó kiếm đã đoạt không biết bao nhiêu là giải thi tác xạ.
Đứng đàng sau là Billy Ogg và Johnny Keeler.  “ Xin nhận món quà của chúng tao,” Ogg nói.
“ Mày giúp tụi tao lấy lại tiền.  Chút đỉnh coi như biết ơn.”


Sau khi đã ngồi trên con tàu chạy trên sông đi về hướng New Orleans, tôi mới bắt đầu lấy súng ra coi.  Tôi cất khẩu Shawk & McLanahan đi mà lòng cảm thấy quyến luyến sao ấy.
Tôi lang thang trên phố xá New Orleans hai tuần, phần lớn là vãn cảnh, nhưng thỉnh thoảng chơi bài.  Nhưng chơi đàng hoàng với dân đàng hoàng.   Lúc ăn lúc thua.  Cuối cùng thì tiền thắng bài đủ để chi phí cho hai tuần lễ đi chơi.


New Orleans kể cũng là chốn đô hội nhưng tôi bắt đầu nhớ miền Tây.  Và nhớ Liza.  Nàng giờ đã lên mười sáu, đã đến cái tuổi cập kê.
Tôi chuẩn bị sẵn hành lý để lên đường.   Trong khi chờ đợi, tôi ghé vào một sòng bài có cái tên là Bẫy Sói.  Khi vừa bước vào thì tôi thấy Woods và một thằng du côn trong vùng tên là Chris Lillie.  Không muốn sinh sự lôi thôi, tôi quay lại đi ra ngoài.


Đường phố ban đêm tối tăm và yên lặng, không người.  Trong khi tôi rảo bước đi về cuối đường thì bỗng nghe tiếng chân người chạy rầm rập đàng sau.  Tôi vội vàng chui vào một ngưỡng cửa tối.
Không thấy ai đi qua.  Rõ ràng là tôi đã nghe tiếng chân người.  Đột nhiên tôi nhớ là có một con đường hẹp khác cũng cắt ngang đường này ở khúc này.  Chắc là tiếng chân người vang vọng từ con đường ấy.  
Tôi thong thả băng ngang bên kia đường.  Tuy là thành phố mới lạ nhưng trò săn người thì đâu cũng vậy.  Tôi núp chờ trong bóng tối của một ngưỡng cửa, mắt dán nhìn vào ngả ba đường.
Vài phút sau thì tôi thấy Chris Lillie ló đầu ra khỏi con hẻm nhỏ và nhìn ngang nhìn dọc con đường tôi vừa đi qua.  Ngoại trừ vài ánh đèn le lói mù sương, tất cả đều tối tăm và yên lặng.  Sương mù bắt đầu trôi dạt vào và màn đêm mang một vẻ ma quái.
Rồi một người nữa xuất hiện.  Thằng Woods.
Chúng đứng đó, thì thầm và nhìn chăm chú chung quanh.  Tôi bỗng bước ra vùng ánh sáng.
“ Chúng mày kiếm tao hả?” tôi hỏi.
Thằng Woods đang cầm sẵn khẩu súng trên tay.  Nó giật mình đưa lên bắn nhưng không trúng.  Tôi cảm thấy viên đạn bay vèo qua tai trong khi đang đưa súng lên bắn.  Woods quay lại hướng kia, và rồi té xuống chết.
Lillie lao người vào hẻm.  Tôi để mặc cho nó đi.  Sau vài phút không động tĩnh gì khác, tôi trở lại khách sạn.  Lúc trời sáng tôi cưỡi một con ngựa thuê dọc theo phía tây ngạn con sông.  
Thế là tôi đã giết người da trắng thứ ba.
Nhưng lần này bằng khẩu Smith & Wesson chứ không phải khẩu Shawk & McLanahan cổ lỗ sĩ.

Chương 8



Thời 1872, phần lớn tiểu bang Texas còn là một chốn hoang dã, đầy nguy hiểm.  Những trận phân tranh đẫm máu giữa các phe Lee-Peacock and Sutton-Taylor đã làm cho mảnh đất vốn đã tiêu điều còn trở nên tan hoang đổ nát hơn nữa.  Mỗi trang trại là một chỗ đóng quân.  Không ai dám cưỡi ngựa lang thang một mình.
 
Khi đến Marshall tôi mua một con ngựa.  Đó là một con ngựa có đốm xám, chạy nhanh chưa từng thấy.  Có lúc tôi giăng lều ngủ ngoài trời, có lúc vào ở trong những lữ quán ven đường hay tạm trú trong một trang trại nào đó.  Tôi dự định sẽ ghé ngang Colorado tĩnh dưỡng một thời gian trước khi đi về California để thăm Logan và Mary.
Tôi cưỡi ngựa về hướng tây nam như vậy trong suốt một tháng trời, và rồi một ngày kia gặp một người với một đàn bò.  Ông ta có sáu trăm con bò và cần người phụ giúp.
Ông khổ người cao to và có một khuôn mặt nhân hậu.  Khi tôi đi trên đường thì ông nhìn tôi và nói, “ Cần việc làm không?”
“ Có thì cũng tốt thôi,” tôi nói và kéo ngựa đi theo bên cạnh.
“ Ba-chục một tháng,” ông nói.  “ Tôi sẽ lùa bò về Ulvade để bán cho Bill Bennett.  Hắn đang trên đường đi Kansas.”
“ Được.”
“ Không hứa sẽ đi Kansas, nhưng tối thiểu sẽ đến Ulvade.  Tên tôi là Wilson.”


Con Xám là một con ngựa nhanh nhẹn và thông minh.  Nó đã trở thành ngựa chăn bò một cách dễ dàng.  Nhưng thường thì tôi cưỡi một con ngựa của Wilson.


Thời đó chẳng ai thèm hỏi lý lịch.  Không thiếu những người có quá khứ không muốn chia xẻ, và nếu mình lo chuyện của mình, làm việc của mình, thì chẳng ai làm phiền đến mình.  
Công việc trên mình ngựa thích hợp với tôi.  Tôi thích suy nghĩ, và ta có thể vừa đi theo đoàn bò, vừa suy nghĩ đủ thứ chuyện.  Trong túi quần jeans, tôi có hơn một ngàn đô.  Thỉnh thoảng tôi cũng chơi bài, lúc ăn lúc thua, nhưng tôi đã có một ít vốn.  Nhưng tôi muốn có nhiều hơn.
Những con bò của Wilson còn non và thuộc giống tốt.  Tôi nghe người ta nói về những đồng cỏ phì nhiêu của miền bắc và khi lùa qua những vùng này thì bò sẽ mập mạp hơn.


Ngày thứ ba tôi cho ngựa chạy lên phía trước, nơi Wilson đang dẫn đầu.  Sau khi nói chuyện trời mưa trời nắng, tôi vào thẳng vấn đề.  “ Tôi cũng có ít tiền,” tôi nói.  “ Muốn mua vài con bò, rồi cho nó đi chung bầy được không?  Thế là mình coi như hợp tác, và ông có người chăn bò không phải trả lương.”
“ Được,” Wilson vẫy tay.  “ Nhập bọn đi.”


Tối hôm đó tôi phóng ngựa đi trước và đi coi bò ở các trang trại.  Coi xong thì tôi ước gì mình có nhiều tiền hơn.
Thời đó ở Texas, ít ai giữ tiền mặt.  Người ta có bò, có ngựa, có cỏ, nhưng một trại chủ trung bình không có nhiều tiền mặt.  Hơn nữa, họ phải liều mạng đi xa, từ ba-mươi tới một trăm dặm ra chợ mà chưa chắc đã bán được, hay có bán được thì cũng giá rẻ như bèo.
Tôi cưỡi vào sân trại và cho ngựa thả bộ đến máng.  Nhìn quanh tôi thấy đa số bò ở đây thuộc giống tôt, dĩ nhiên có vài con đẹt nhưng đâu chẳng vậy.  Giống bò sừng dài này có thể to lớn và nhiều thịt.  
Cánh đồng cỏ không được tốt mà bò lại quá nhiều.  Nhiều trại chủ không hiểu là mỗi trại chỉ có khả năng nuôi một số gia súc có hạn.  Họ nhìn vào những trang trại với hàng triệu con bò rừng, nhưng họ quên đi rằng bò rừng vừa đi vừa gậm và nhờ đó, cỏ có thể mọc lại được.  Bò thịt thì khác.  Chúng được nuôi trong một vùng ăn cỏ giới hạn, và chúng ăn cho đến khi cỏ trơ trụi hết.
 
Ngựa tôi bước đến máng uống nước, và một người đeo đôi ủng bước ra.  
“ Xuống đây nghỉ ngơi một chút đi,” ông mời.  “ Ở đây chẳng mấy khi có khách.”
“ Ghé ngang thôi,” tôi nói trong khi tung người xuống ngựa.  “ Trên đường đi Uvalde.”
“ Lý ra tôi phải,” ông vừa nhét cục thuốc rê vào miệng vừa nói.  “ Lùa bầy bò của tôi về San Antonio nhưng không có người nên chịu thua.  Tôi muốn đi tận Kansas cơ.”
“ Nguy hiểm,” tôi nói.  “ Nào là mọi, nào là ăn cướp.”
Bà vợ đi ra nhìn mặt tôi, với hai đứa con mặc quần áo nhà làm, con mắt tròn xoe.
“ Có thể tôi sẽ mua vài con,” tôi nói trầm ngâm. “ Đã có công đi, không làm cũng uổng.”
Ông liếc nhìn bộ quần áo mới trông có vẻ khá giả của tôi.  “ Anh nói chí phải,” ông nói.  “ có tiền mặt bây giờ mua bò rất rẻ.”
“ Chưa chắc,” tôi nói.  “ Mất tiền cũng dễ như chơi.  Bò lắm khi bỏ chạy toán loạn...Có người có lời, nhưng cũng lắm kẻ táng gia bại sản.”
“ Trẻ tuổi như anh,” ông nói.  “ Phải biết nắm lấy thời cơ.  Gấp đôi tiền vốn không phải chuyện khó.”
“ Chẳng giấu gì ông,” tôi nói ngập ngừng.  “ Tôi cũng có một chút đỉnh tiền bạc, nhưng xứ này hiếm vàng và tôi chẳng muốn dùng đến nó.” Tôi để lửng câu nói vài phút để ông ta có thời giờ suy ngẫm, và rồi nói thêm,  “ Xứ này có vàng mua tiên cũng được.”


“ Vàng?” ông quay lại nhìn vào mặt tôi.  “ Này người anh em, nếu anh muốn dùng vàng mua bò thì chẳng phải đi đâu xa.  
Ở San Antonio người ta trả mười đồng một đầu.  Đâu có hơn giá của tôi.  Mà khỏi phải nguy hiểm, đi tận Kansas.
Rồi lại còn mướn người, mua xe, thức ăn thức uống, đủ thứ phí tổn.”
Ông trại chủ nhai thuốc, trông có vẻ suy nghĩ lung lắm.  “ Có thể tôi cũng bán đại vài con,” ông nói.  “ Kiếm ít tiền mặt.”


Bò thì đẻ mắn như thỏ mà trại của ông thì đã quá nhiều.  Họa có điên mới không bán để mà dành cỏ cho con khác.  
“ Trả ông năm đồng một con đó, chịu không?”
Ông tỏ vẻ ngạc nhiên.  “ Năm đồng? Anh nói giỡn chơi chắc?”
Tôi cầm dây cương chuẩn bị trèo lên ngựa.  “ Không được thì thôi.  Dù gì tôi cũng có lương chăn bò.  Ôm đồm mua bò nhiều khi lỗ lã.  Thôi, cũng chẳng sao.”
“ Thôi.  Tôi để cho anh vài con với giá tám đồng nhé?” ông đề nghị một cách hy vọng.
“ Không được đâu,” tôi nói.  “ Tôi phải đi đây.  Cám ơn ông nhé.”
Ông đặt tay trên yên ngựa của tôi.  “ Khoan đã.”


Nửa tiếng sau thì giá cả đã ngã ngũ là bẩy đồng một con, người làm cho lùa một trăm con đã tuyển lựa, không con nào đẹt cả.  Và khi đoàn bò của Wilson tới nơi thì tôi cho nhập bọn.  Tôi cũng mướn một thằng bé trong vùng muốn lên San Antonio chơi với giá mười đồng.  
Tôi sung sướng nhìn đàn bò của mình.  Chúng thuộc giống tốt và sẽ bán được giá ở San Antonio hay ở cuối hành trình tại Kansas.


William J. Bennett đang đợi ở hội chợ Uvalde khi tôi cưỡi ngựa vào quảng trường với Wilson.  Wilson chỉ vào tôi.  “ Ryan Tyler,” ông nói.  “ Một tay chăn bò ngon lành.”
“ Hân hạnh gặp em,” Bennett cắt đầu xì gà.  “ Có bò không?”
“ Một trăm con.”
“ Qua sẽ mua hết luôn. “


Thế là làm ra tiền dễ như ăn cháo, gấp đôi tiền vốn trong chỉ vài ngày.  Tôi có thể tiếp tục mua bán bò thịt, và biết đâu có thể làm ăn khấm khá.  Nhưng hành trình đến Kansas đi về hướng bắc, gần với Colorado hơn.
“ Mười đồng một con,” Bennett nói.  “ Chịu thì chịu, không chịu thì thôi.”
“ Không,” tôi nói chậm rãi.  “ Tôi chưa muốn bán.  Tôi muốn đi cùng với ông,” tôi tì người xuống núm yên.  “ Này ông Bennett, tôi muốn một cái trang trại cho riêng mình.  Tôi biết một địa điểm ở một thung lũng nhỏ phía Colorado, nhưng tôi cần tiền.  Nếu tôi mang bò đến Kansas, thì có thể có gần đủ vốn.”


Ông bập bập điếu xì gà và nhìn chung quanh quảng trường.  Cuối cùng ông lấy điếu xì gà ra khỏi miệng.  “ Chú em còn tiền không?”
“ Chỉ vài trăm đô.”
“ Muốn mua thêm bò không?”
“ Muốn chớ.”
Ông nhìn đầu điếu xì gà.  “ Thôi được rồi.”
Ông thọc tay vào túi lấy ra một cái bao nhỏ.
“ Trong đó có mười ngàn.  Mua cả cho tôi luôn.  Mồng năm là phải đi rồi.”


Khi tôi bắt đầu tung người lên ngựa, ông lại nói, lần này chỉ đủ để tôi nghe thôi.  “ Chú em là người hạ thủ thằng Wheeler phải không?”
Tôi ngồi yên trên lưng ngựa một hồi lâu.  Rồi nhìn ông, tôi lặng lẽ gật đầu.
“ Thằng đó tôi quá biết,” Bennett nói bất thần.  “ Nó giết bạn đồng hành của tôi ở Ngã Ba Hồng Hà bốn năm trước đây.”


Khi cưỡi ngựa ra khỏi phố, tôi cảm thấy bao vàng trĩu nặng.  Lần đầu tiên có người tin tưởng tôi với một số tiền lớn lao như vậy.  Mà không chỉ tin tưởng với số tiền, mà còn là tin tưởng vào khả năng mua bán của tôi.  Tôi cảm thấy hãnh diện và thích thú.
Vùng San Antonio người ta mua sạch hết bò nên một tuần sau tôi mà mới chỉ thấy được ba mươi con khả dĩ giống tốt nhưng chưa đủ tiêu chuẩn để mang theo, nên tôi đi tiếp, hy vọng gặp được vận may hơn ở chỗ khác.


Vùng đất hoang dã và cô độc, thỉnh thoảng có những rừng gai, nhưng đa phần là đồng không mông quạnh, gập ghềnh, khúc khuỷu.  Những trang trại nằm rải rác, nhiều chỗ nhỏ xíu không đáng lưu tâm.  


Trời bắt đầu chuyển mưa nên tôi cho con Xám chạy tới và lấy áo mưa ra khỏi cuộn chăn mền.  Hồi này tôi đeo hai súng, một khẩu trong bao, còn khẩu kia lận lưng quần sau lưng, che kín bởi áo khoác ngoài.  Tôi phải cẩn thận vì mang theo tiền người khác và vì tôi không tin vào vận số.  Mấy thằng tin vào vận số, tôi chôn cũng đã khá bộn.  


Đây là một vùng đất hung hiểm.  Đi cả ngày thế nào cũng gặp vài tay kị mã, mặt mày cô hồn các đảng.  Mấy thằng nhìn mặt đủ biết là dân trên núi xuống.
Mưa gió vừa bắt đầu và tôi đang kiếm chỗ trú mưa thì chợt nghe được tiếng ầm ì của một đoàn bò khá lớn.  Rồi tôi thấy một căn nhà lớn xây bằng gỗ.  Bên cạnh nhà là những chuồng ngựa và một căn nhà chái, xa xa là một đàn bò, tối thiểu sáu trăm con to kềnh, đứng tụm lại trong một vùng đất bao bọc ba phía bởi dốc đất.
Và rồi trời mưa xuống như thác lũ, tôi cho con Xám chạy vội tới cái chái.  Tôi tìm chỗ buộc ngựa rồi cắm cúi chạy về hướng căn nhà chính.
Có ánh đèn le lói sau cánh cửa chớp và tôi đập cửa.
Không thấy động tĩnh gì hết.
Không có hàng ba nên tôi đứng chịu trận dưới cơn mưa tầm tã.  Tôi đẩy cửa bước vào và sắp sửa gọi to thì chợt nghe tiếng người nói,
“ Không trả ngay bây giờ thì chúng tôi bắt bò.”
“ Mấy ông không có quyền làm vậy,” tiếng một người đàn bà phải đối.  “ Giao bán bò xong rồi mới tính chuyện tiền bạc chớ.”


Tiếng mưa vẫn tiếp tục rơi nặng hột trên mái.  Tôi ngần ngừ, không biết phải làm gì nhưng mẩu đối thoại làm tôi chú ý.  
“ Giờ chúng tôi đổi ý, có được không?”
Giọng người đàn ông nghe có vẻ chế nhạo, kiểu như nói chuyện với phụ nữ không có chồng bên cạnh.  Tôi cảm thấy khó chịu.


“ Ông cứ đợi đó.  Thế thì tôi kiếm người khác đi giao bán bò vậy.  Sau khi bán xong, tôi sẽ trả tiền cho ông.”
“ Chẳng có đợi chờ gì cả.” Giọng người đàn ông đầu vẻ tự tin.  “  Tụi này không cho thì bố bảo đứa nào dám vào đây giao bò cho bà.”


“ Có ai ở nhà không?” tôi to tiếng gọi và không có tiếng trả lời nên tôi đi thẳng vào căn phòng có ánh đèn.
Trong đó hai người đàn bà.  Người đang đứng, tôi đoán là người nói chuyện khi nãy.  Bà trông trẻ tuổi, mặt mũi tương đối coi được.  Người đàn bà kia đã lớn tuổi.  Trông bà có vẻ lo lắng và sợ sệt.
Có ba người đàn ông, tướng tá du côn, râu ria nham nhở, mặt mũi bẩn thỉu.   Tất cả đầu dõi mắt nhìn tôi.


“ Tôi gõ cửa mà không thấy ai trả lời,” tôi nói, tay trái dở nón,” Cho nên tôi mạo muội vào đây trú mưa.”
“ Dạ vâng...mời ông ngồi,”  Tuy lo lắng nhưng người thiếu phụ vẫn không quên phép lịch sự.
“ Đừng lo.  Hắn không có ở lại đâu.” Thằng to con nói một cách sỗ sàng.  “ Đang nói chuyện làm ăn, người ngoài nghe không được.”


Trước khi bà ta có cơ hội mở miệng, tôi nói liền.
“ Tôi nghe nói bán bò hả?” tôi nói.  “ Tôi muốn mua.  Mấy con và bao nhiêu một con?”
Thằng to xác có vai dềnh dàng và cằm bạnh.  Hai thằng kia, một thằng mắt lé, một thằng áo xám.  Chúng nó bực mình và ghét tôi ra mặt.
“ Mày nghe lầm rồi,” Thằng to xác nói.
Tôi làm bộ như không nghe và tiếp tục nhìn vào người thiếu phụ. “ Bà chắc là trại chủ.  Tôi mua trực tiếp tại chỗ, khỏi mất công bà tìm người giao bò.  Tôi đại diện cho ông Bennett để mua, và ông ta là người mua bò duy nhất ở San Antonio.”


Ba thằng côn đồ tưởng mình sắp ăn cướp được đàn bò, bổng nhiên xôi hỏng bỏng không nên chúng đỏ mặt vì tức giận.  
Tôi bồi thêm một cú.  “ Thưa bà, lúc vào tôi vô tình có nghe câu được câu không.  Có phải là bà đã mướn mấy người này để gom bò đi giao, và trả tiền sau khi bò bán, đúng không ạ?”
“ Đúng thế.”
“ Ê thằng kia,” Thằng to xác mím chặt môi, bước lại phía tôi.
“ Tôi sẽ mua đàn bò của bà,” tôi nói với người thiếu phụ.  “ Tôi sẽ trả tiền mặt.”
“ Tôi đồng ý bán.”
Tôi quay người vừa đủ để đối diện cả ba thằng.
“ Bò đã bán cho tao rồi,” tôi nói.  “ Tao cho tụi bay nghỉ việc hết.”
“ Mày--”
“ Câm miệng lại,” tôi xấn bước tới thằng to xác.  “ Tao trả tiền mày ngay bây giờ.  Còn thắc mắc gì không?”


Chúng nó đứng yên sững sờ.  Tôi đâu có phải là một người đàn bà không tấc súng để tự vệ đâu.  Tuy tôi trông trẻ, nhưng khẩu súng bên hông của tôi không trẻ tí nào.
“ Chúng tao không có gây hấn với mày, nhưng chúng tao không làm cho mày nên mày không đuổi được tao.”


Mắt tôi dán chặt vào thằng đó trong khi tôi hỏi người thiếu phụ.  “ Bà có bán bò cho tôi không?”
“ Tôi bán cho ông rồi.” Bà ta nói.
“ Tôi sẽ trả giá phải chăng cho bà,” tôi nói.
Tay thằng áo xám bắt đầu khuỳnh tay ra.  Hình như chúng có ra dấu cho nhau và thằng to xác đưa tay rút súng.  Thế là tôi móc cây Colt và dọng bá súng vào hàm nó.  Nó té đổ xuống như một cái cây bị đốn, và đồng thời họng súng đen ngòm của tôi đã chỉa thẳng vào hai thằng kia.
“ Bớt thằng nào,” tôi nói.  “ Thì đỡ phải trả tiền thằng đó.”


Chúng nó muốn thử tôi lắm.  Chúng nó nghĩ hai thằng cùng một lúc thì có hy vọng, nhưng chẳng thằng nào muốn rút trước, chẳng thằng nào muốn chết trước.  Đồng thời chúng cũng cảm thấy được một cái gì toát ra nơi tôi, sự tự tin của một kẻ biết mình muốn gì và biết mình làm được.  Như thằng Burdette đã từng thấy, như Logan Pollard đã biết từ lâu.  Và chúng ngần ngại.


Thằng nằm dưới sàn bắt đầu rên rỉ.  Và cuối cùng thì thằng áo xám buông thõng tay xuống.
“ Khiêng nó lên,” tôi nói, “ Và cút đi cho khuất mắt tao.”
Thằng áo xám do dự.  “ Thế còn tiền của chúng tôi thì sao?” nó hỏi.
“ Hứa trả chúng ba mươi đồng một tháng,” Người thiếu phụ nói.  “ Họ mới làm có ba tuần.”
Tôi lấy tay trái đếm hai-mươi-lăm đồng cho mỗi đứa.  “ Nhặt tiền lên.  Lạng quạng là tao bắn bỏ mẹ.”


Tụi nó thấy tôi trẻ, nhưng đây là xứ của John Wesley Hardin, người đã giết hai mươi người khi bằng tuổi tôi.  Và chúng nhặt tiền rồi bỏ đi.
Tôi theo ra tới cửa, nhìn chúng lên ngựa.
“ Đừng có là láng cháng đụng đến mấy con bò,” tôi nói.  “ Bất kì chuyện gì xẩy ra thì tao sẽ lùng bằng được từng đứa mày.”
Sau khi chúng đi xa rồi tôi mới đi vào trở lại.


Hai người đàn bà bày thức ăn ra mặt bàn.  Người thiếu phụ quay lại nhìn tôi.  “ Cám ơn,” bà nói.  “ Cám ơn ông nhiều lắm.”
Tôi hơi ngượng, và nói.  “ Bẩy đồng một đầu bò?”
“ Được.” Bà đẩy tờ giấy tổng kết đàn bò sang phía tôi.
Tổng cộng là 637 con.  “ Làm thế nào mà ông có thể lùa chúng tới San Antonio được?”
“ Mướn người.”
“ Không có ai đâu.  Không ai dám đụng tới mấy thằng Tetlows.”
“ Rona, mình có thể nhờ Johnny,” Người đàn bà lớn tuổi đề nghị.  “ Và cả hai mẹ con mình đều có thể cưỡi ngựa được.”
“ Mẹ nói phải,” Rona nói.  “ Tôi cưỡi ngựa từ hồi mới lên sáu.  Chúng tôi có thể giúp ông.”


Và thế là tôi lùa đàn bò về San Antonio với sự giúp đỡ của hai người đàn bà và một thằng bé mười bốn tuổi.  Nhưng tôi cũng có một con bò đực, sừng có rêu, dẫn đầu đàn.  Mình nó bằng mười-hai thằng chăn bò.
Bennett tự tay trả tiền Rona, thỉnh thoảng lại liếc nhìn tôi.  Khi ông trả xong thì hai người chuẩn bị đi.
Rona chìa tay ra.  “ Cám ơn,” bà nói.
Một người làm công cho Bennett bước vào.  “ Tyler,” nó nói, “ anh có muốn---”


Tự dưng hắn ngừng lại.  Mặt Bennett tái nhợt, và cả hai người đàn bà quay lại nhìn tôi.  Và tôi không biết ất giáp gì cả.


Một lúc sau Rona nói, “ Tên ông là Tyler?”
“ Dạ vâng,” tôi nói.
“ Ryan Tyler?”
“ Dạ phải.”
Bà nhìn tôi một lần nữa, rồi nói nhỏ,  “ Cám ơn.  Cám ơn ông, Tyler.”  Và rồi cả hai người đàn bà bước ra.
Bennett lấy điếu xì-gà ra khỏi miệng và lầm bầm chửi thề.  Rồi ông bỏ điếu xì-gà trở lại trong miệng và nhìn tôi.  “ Chú em có biết hai người đàn bà đó là ai không?”
“ Không.”
“ Đó là mẹ và góa phụ của Rice Wheeler.”


Chương 9



Chúng tôi lùa bầy bò, ba ngàn con sừng dài dắt bởi con bò đực màu nâu của tôi, đi về hướng Bắc, băng qua những cánh đồng cỏ khô.  Sau một tuần thì đàn bò bắt đầu quen thuộc với sinh hoạt hàng ngày.  Mỗi buổi sáng, khi trời còn tờ mờ hơi sương là con bò đực sừng phủ rêu đã đứng chờ sẵn sàng, và khi anh cao bồi cho cỗ xe thức ăn chạy là nó quay đầu về hướng bắc, dẫn đầu đoàn bò.


Đó là một cuộc sống đầy cam khổ, phải cứng cỏi lắm mới chịu nổi.  Ngồi trên mình ngựa từ táng sáng cho đến tối, ngửi bờ ngủ bụi, chế ngự những con bò phá phách cứng đầu, dầm mưa dải nắng, có khi phải lội qua những dòng sông nước chảy cuồn cuộn.  Nhưng vẫn phải tiếp tục đi tới.  Nhưng không được đi quá nhanh, vì cỏ non mơn mởn và chúng tôi muốn bò ăn nhiều mập mạp.
Trong đám đó, hai trăm năm mươi con là của tôi, không có dấu đóng đặc biệt.  Tùy theo giá cả, khi tới cuối đường, tôi có thể bán chúng với giá từ năm cho đến bẩy ngàn đô, và đó là một số tiền đáng kể.  Tiền mồ hôi nước mắt chứ không phải tiền đánh bạc.


Cỏ xanh tươi mọc khắp nơi nên đàn bò mập mạp hẳn lên.  Nếu không có gì trở ngại thì cả hai chúng tôi sẽ làm ra tiền.  Không ai đá động gì thêm về Rice Wheeler.  Đôi khi tôi thắc mắc không biết người ta nghĩ gì về mình khi nghe gọi đến tên tôi.  Bennett chỉ đề cập đến có một lần, khoảng hai ngày sau.


Tôi phóng ngựa về phía trước để điều khiển một con bò dở chứng, bỏ đàn.  Bennett chạy theo giúp tôi, và rồi cưỡi ngựa chạy song song.


“ Đừng để tâm đến thằng Wheeler làm gì,” ông nói thình lình.  “ Nó là quân vô lại.  May cho Rona là nó bỏ nhà ra đi, không hề quay trở lại. “
“ Nó tự ý bỏ đi à?”
“ Không.  Người ta bắt được quả tang trong đàn bò của nó có dấu mới đóng.  Nó giết một người rồi bỏ xứ ra đi trước khi bị bắt.”


Chúng tôi có một đội ngũ khá ngon lành.  Không kể ông chủ hay ông bếp thì thằng lớn tuổi nhất mới hai mươi sáu tuổi.  Có hai thằng cao bồi con chưa tới mười sáu tuổi.  Tổng cộng có tất cả là mười bốn cao bồi, mười bẩy nếu kể cả Bennett, ông bếp, và tôi.  


Chúng tôi băng qua sông Hồng Giang và tiến sang vùng Đất Mọi, đi về hướng Wichita.
Những toán mọi da đỏ xuống gặp chúng tôi hai lần và bao giờ chúng tôi cũng cho chúng một con bò.  Lần nào chúng cũng vòi vĩnh xin thêm nhưng không cho thì cũng chịu.


Sau khi vượt qua con sông Bắc Canada thì đoàn chúng tôi chết mất một người do nạn bò chạy loạn.  Chúng tôi chôn nó tại chỗ trên đồi để nó có thể nghe được tiếng chó sói và tiếng hát ban đêm của người chăn bò.  Ngày nó chết, nó mới được mười bẩy tuổi.


Tiếng trống bộ lạc Osage nổi lên và chúng tôi cho gom bò lại.  Đến đêm chúng tôi không ngủ quanh lửa trại và cho hai người gác bên ngoài.  Giai đoạn đó chúng tôi chẳng được ngủ nghê gì cả. Nhưng chúng tôi sắp đến biên giới Kansas, và tương lai có vẻ khả quan.


Khi vừa đến Cimarron là chúng tôi bị tấn công bởi một đoàn quân da đỏ bộ lạc Osages.  Chúng tràn xuống, gọng kềm mở rộng, một lũ mọi trẻ người non dạ.  Và chúng đã tấn công không đúng lúc.
Tôi, ông xếp, và một thằng cao bồi sừng sỏ tên là Mustang Roberts lúc ấy đang cưỡi ngựa bọc hậu.  Chẳng ai bảo ai, chúng tôi quày ngựa lại, nhẩy xuống đất, quì gối, và đưa súng lên nhắm.
Chúng nó nằm rạp người sang một bên, phi ngựa tới như ngọn cuồng phong.  Khi tới tầm, chúng tôi bắt đầu nổ súng.


Một thằng té xuống, con ngựa đá nó vào đầu, chạy tiếp.  Một con ngựa ngã quị, ném thằng cỡi bay lên không và một viên đạn của thằng Kid Beaton ghim vào người nó.
Trong vòng vài giây, chúng nó mất ba thằng và hai con ngựa, và quyết định rút lui.


Hai ngày sau thằng Mustang chạy đuổi theo một con hoẵng, mãi không thấy về.  Tôi đang cưỡi ngựa nên quay lại dò theo vết chân ngựa của nó.  Đi được khoảng tám cây số thì tôi bỗng nghe tiếng súng nổ.  Tôi phóng ngựa về hướng tiếng súng, khẩu Winchester còn mới, sẵn sàng sử dụng.


Chúng nó có sáu thằng, thuộc bộ lạc Kiowas, đang dí thằng Mustang nằm bẹp xuống một vũng trâu đằm.  Thằng Mustang bị một viên đạn vào chân và con ngựa của nó nằm chết thẳng cẳng bên cạnh.
Chúng có thể nghe được tiếng vó ngựa của tôi từ xa.  Thế là tôi lao ngựa tới, dây cương móc trên cục tròn của yên và vừa chạy vừa bắn.  Không bắn trúng đứa nào nhưng cát bụi bắn tung toé gần chúng.  Có một thằng nhẩy nhổm lên la ó.  Và rồi tôi phóng ngựa tới vũng trâu đằm trong khi thằng Mustang bắn phủ cho tôi.  Nó bắn trúng một thằng vừa lúc tôi xà người xuống ôm ngang eo ếch nó.  Tôi móc nó lên và nó bỏ một chân vào bàn đạp.


Thế mà cũng thoát chết được thì kể cũng là chuyện hi hữu.  Một hồi sau, năm thằng chúng tôi trở lại để lấy yên ngựa, và chúng tôi thấy có đầy máu me vung vãi ở một đám cỏ.  
“ Tối thiểu là một thằng,” kid Beaton nói.  “ Một thằng bỏ mạng sa tràng.”


Rồi đến những ngày chỉ có bụi mù, và cỏ bắt đầu mọc thưa thớt hơn.  Thế là chúng tôi đi đường vòng, tránh con lộ chính để tìm cỏ tươi cho bò ăn.  Có lúc chúng tôi dừng lại vài ngày cho bò nghỉ ngơi ăn uống no nê.  
Và chúng tôi đi tiếp.  Khi qua khỏi biên giới Kansas chúng tôi khám phá một thung lũng dài và nông với suối nước và cỏ non.  Chúng tôi lùa bò vào thung lũng và cắm trại gần suối nước, cạnh một lùm dương liễu và vài cây bông gòn.


Vừa cắm trại xong thì chợt nghe tiếng vó ngựa và bốn người cưỡi tới.
Mustang đặt đĩa xuống, liếc nhìn về phía tôi.
“ Có chuyện,” hắn nói.


Ba thằng xuống ngựa.  Thằng thủ lãnh là một thằng nhỏ con, mặt choắt và đôi con mắt láo liên.  Hai thằng đứng sau trông gồ ghề và bẩn thỉu.  Một thằng trông có vẻ có máu mọi.


“ Tên tao là Leet Bowers,” thằng thủ lãnh nói.  “ Sáng mai tụi tao chia bớt đàn bò của mày.”
“ Hình như tụi mày lấy nhầm một ít bò của bọn tao.” Một thằng khác vừa cười vừa nói.
Bennett không nói gì.  Ông đứng đó, hai chân dạng ra, tay cầm ly cà phê.  “ Chẳng có thằng nào được đụng tới bò của tao,” ông nói.
Bowers cười.  “ Tao sẽ lấy.”
Lúc chúng đến thì tôi đang rót cà phê từ ấm vào.  Tôi bước xa đám lửa, tay vẫn cầm ly cà phê nóng.  “ Tao không nghĩ vậy,” tôi nói.
Bowers quay lại nhìn tôi.  Nó đeo một khẩu Colt Bisley.  Một mảnh vá nhạt màu, khâu ngay trước ngực.


“ Tụi tao có hai mươi lăm tay súng,” nó nói, nhìn tôi chằm chằm.  “ Dĩ nhiên là tụi tao sẽ bắt bò của mày.”
“ Chẳng cần hai mươi lăm,” tôi nói, bước ra ngoài đám lửa thêm một chút.  “ Chỉ cần một thằng ngon lành là đủ rồi.  Bằng không thì không những hai mươi lăm không đủ, mà năm mươi cũng chẳng đến đâu.”
“ Mấy thằng tụi tao,” tôi nói thêm,” Cũng ngứa ngáy lắm rồi.  Lâu nay chưa có trận nào cho nó ra hồn.”


Nó vẫn nhìn tôi.  Mustang đứng bên phải.  Tuy chân nó băng bó nhưng tay nó vẫn lành lặn.  Kid Beaton đứng hơi xa hơn.
“ Tên mày là gì?” nó hỏi nhỏ.
“ Tên tao là Ryan Tyler,” tôi nói.  “ Mấy con bò này của tao.”


Mắt thằng Leet Bowers long lanh và nó liếm môi.  Nó cười cười.  “ Rye Tyler,” nó nói,  “ Kẻ giết Rice Wheeler nhưng lại bị Burdette tống cổ ra khỏi Colorado.”
Ánh lửa bập bùng và bóng tối mờ mờ ảo ảo.  Bắn nhau lúc này hơi khó.


“ Chẳng có thằng Burdette nào đuổi tao ra khỏi Colorado nào cả,” tôi nói,  “ Nhưng chuyện đó không thành vấn đề.  Tao không cho mày lấy bò của tụi tao.”
“ Burdette đuổi chạy cong đuôi,” nó lập lại.  “ Mày là thằng hèn.”


Viên đạn thứ nhất cắt ngang lằn trên cùng của miếng vá, viên thứ hai nằm sát ngay dưới cái lỗ của viên thứ nhất.
Leet Bowers té úp mặt xuống đám lửa nhưng không cảm thấy gì vì nó đã chết.


Chuyện xảy ra nhanh đến độ không ai kịp phản ứng gì, nhưng khi âm vang của tiếng súng vừa dứt thì Kid Beaton chĩa khẩu Sharp vào người mấy thằng kia.  “ Chúng mày cút đi ngay,” nó nói, và chỉ vào cái xác,  “ Mang cái này theo.”
“ Ngay lập tức,” ông bếp nói, trên tay là khẩu shotgun.  “ Bằng không ông chôn chúng mày ở đây luôn.”


Chúng lôi xác thằng Bowers ra khỏi đống lửa và đặt lên mình ngựa.  Bennett bước tới gần.
“ Đừng có mà léo hánh tới gần bầy bò của tao.  Tao mà mất một con bò thì sẽ truy lùng từng thằng khốn nạn chúng mày và treo cổ lên một cái cây cao nhất.
Bằng không có cây thì sẽ lôi xác chúng mày.”


Chúng cưỡi ngựa bỏ đi như những con chó cụp đuôi.


Mustang Roberts nhìn tôi, ly cà phê vẫn còn bốc khói trên tay.
“ Thấy không? Dùng tay trái thôi đấy nhé.  Mà cà phê không hề sánh ra ngoài.”
Bennett quay lại tôi.  “ Giỏi lắm Tyler.  Tôi đã từng nghe nói về thằng này.  Nó giết một người độ hai tháng trước và kể từ đó, coi trời bằng vung.”


Đây là lần đầu tiên bắn người mà lòng tôi không cảm thấy xốn xang.  Trong ánh mắt Leet Bowers đã lộ ra một tia xấu xa ác độc.  Cái nhìn của một thằng thích giết người.


Khi chúng tôi đang gom bò lại ở vùng ngoại ô của Wichita, Roberts cưỡi lại gần tôi.
“ Về Colorado hả?”
“ Ờ.”
“ Thằng Burdette này là thằng như thế nào?”
“ Một tay súng nhiều kinh nghiệm.”
“ Có vấn đề với nó?”
“ Lời qua tiếng lại.” tôi lùa một con bò đực về bầy.
“ Có vẻ nó nói tùm lum.”
“ Kệ nó,” tôi nó, “ Tôi không muốn sinh sự.  Nhưng tôi phải về.”
“ Có thể tôi sẽ theo anh.”
“ Càng vui.”


Ở Wichita, Bennett quyết định chưa bán, đợi giá cao hơn, và khuyên tôi cùng làm vậy.
“ Tôi phải bán bây giờ,” tôi nó.  “ Tôi muốn về Colorado.”
Ông gật đầu, miệng nhai nhai đầu điếu xì gà.  Rồi ông lấy điếu xì gà ra và nhìn.  “ Nếu chú em ở lại với qua,” ông nói.  “ Ta có thể làm ăn lớn.  Mua thêm một bầy từ Texas.  Vài năm là giàu to.”
“ Có thể---nhưng tôi không muốn mỗi lần đi lại phải giết một người.”
“ Hết rồi,” ông khoa tay.  “ Kể từ giờ trở đi thì không thằng ăn cướp bò nào mà không biết số phận của Leet Bowers.  Bố bảo chúng cũng không dám đụng đến.”


Tôi quả có thích đời sống chăn bò rày đây mai đó trên lưng ngựa thật.  Nhưng ở khoang trời Colorado có một người con gái mà tôi không bao giờ quên được.
Hồi đó thì nàng còn bé, nhưng giờ thì---


“ Không,” tôi nói.  “ Cám ơn ông.  Tôi phải về.”
“ Burdette?”
“ Không.  Tôi hy vọng không bao giờ gặp hắn.  Nhưng có một người mà tôi muốn gặp lại.  Và còn cái trang trại mà tôi hằng mơ mộng.


Hai ngày sau tôi bán được bò với giá khá cao và ra đi với hơn bẩy ngàn đô, vừa vàng vừa hối phiếu của Ngân Hàng St. Louis.  Mustang Roberts cưỡi ngựa sóng bên với tôi.
Trời cuối thu, không khí khô và lạnh không khác khí hậu của miền thượng du.  Chúng tôi đi về hướng Tây, trực chỉ thành phố Dodge.  Thành phố nằm cuối đường, người săn thú và chăn bò đi đầy đường.  Chúng tôi chen lấn đi vào một quán rượu mặc dù tôi ít khi uống, chỉ để có dịp quan sát cái thành phố điên loạn này.  


Người đầu tiên tôi gặp là Billy Dixon mà tôi biết hồi còn ở Kansas City.
“ Mày đi theo tao,” Hắn nài nỉ.  “ Tao sẽ đi về phía Tây săn bò rừng.  Chỉ vài tháng là có khối tiền.”
“ Thôi.  Tao không thích giết chóc.”
Cả Dixon lẫn Mustang Roberts đều nhìn tôi chằm chằm.
Mặt tôi đỏ bừng, “ Nói thiệt mà.  Tao có giết cũng chỉ vì bất đắc dĩ thôi.”
“ Nói cái đó mới nhớ,” Dixon nói.  “ Billy Ogg nói tao, thằng cờ bạc Charley Woods đó.  Billy nói nó bị giết rồi.”
“ Vậy sao?”
“ Chắc bị giết lúc mày đang ở New Orleans đó.  Thằng Chris Lillie kể là Woods định giết một thằng miền Tây nào đó.”
“ Chắc cũng đáng đời.”


Tôi không kể gì cho một ai là tôi đã giết bốn người, không kể mọi da đỏ.  Chẳng có gì để mà hãnh diện.  Chỉ có mấy thằng khốn nạn mới khắc dấu lên bá súng mỗi khi giết ai.  Tôi sẽ không bao giờ như vậy.
Mà tôi cũng chẳng muốn ai biết mình là sát thủ.  Cho đến giờ, không ai biết về Jack McGarry.  Chỉ có dân California biết thôi, nhưng dân miền đất chăn bò không biết nhiều về dân làm hầm mỏ.
Ở đây người ta chỉ biết tôi giết hai người là Rice Wheeler và Leet Bowers.  Vậy thôi cũng đủ để họ nghĩ tôi là một người nguy hiểm.  Người khôn chẳng bao giờ muốn cái tiếng tăm kiểu đó.  Bỗng dưng mình lại thành mục tiêu cho tất cả những xạ thủ từ khắp nơi.  


“ Bữa trước tao đương nghĩ tới mày,” Dixon nói tiếp tục.  “ Có phải hồi đó mày nói với tao là mày làm cho một người tên là Hetrick ở Ngả Ba Mason, Colorado không?”
“ Đúng rồi.  Ổng rất dễ thương.”
“ Vậy thì tao chia buồn với mày, nhưng phải cho mày biết ngay bây giờ.  
Thằng Ollie Burdette đã giết ổng rồi.”


Chương 10



Tôi sửng sốt một lúc lâu rồi mới định thần được.  Hetrick ít khi đeo súng và chẳng khi nào giận ai.  Ông là một người nghiêm nghị nhưng tử tế.  Nhưng mặt khác, ông cũng là một người bất di bất dịch trên phương diện nguyên tắc.  


Nhưng làm sao mà ông lại chạm trán với Burdette là điều tôi không thể hiểu được.  Ít khi nào ông vào phố, và có vào cũng không ngồi lê đôi mách, hay la cà quán rượu.  Ông là người chỉ biết có gia đình.
Nhưng rồi tôi nghĩ lại.  Hetrick là người duy nhất có mặt khi tôi thách thức Burdette.  Và biết đâu, khi Hetrick nghe Burdette rêu rao là đuổi tôi khỏi tiểu bang, đã quyết định nói lên sự thật.
Mấy thằng như Burdette phải sống nhờ vào cái tiếng là người nguy hiểm.  Mất cái đó là mất tất cả.  
“ Xẩy ra hồi nào vậy?”
“ Bốn, năm tháng trước.”
“ Vậy à.”
Tôi phải đi về Ngả Ba Mason càng sớm càng tốt.  Nhưng không phải vì Ollie Burdette mà vì Liza.  
Liza giờ này ra sao rồi?


“ Mày có thích chốn này không?” tôi hỏi Mustang.
“ Cũng chẳng có gì đặc biệt.”
“ Thế thì mình đi.”
Billy Dixon bước ra lề đường nhìn chúng tôi lên ngựa.
“ Ráng giữ mình,” hắn dặn.  “ Thằng Burdette đó nguy hiểm lắm.
Tôi chỉ vẫy vẫy tay.


Những cánh đồng bao la bát ngát trôi tuột về sau.  Chúng tôi thấy một đàn bò rừng nhiều như một đại dương, lúc nhúc những đầu đen tới cuối chân trời.  Rồi cảnh vật bắt đầu thay đổi dần dần, với những ngọn núi phẳng mặt và những khe suối.  Mùi phân bò đốt làm tôi nhớ lại kỷ niệm với Bố và thời đi theo đoàn xe.
Sẽ có ngày tôi phải về kiếm mộ Bố và đặt bia mới.  Nhưng sẽ không cải mả.  Bố đã nằm xuống nơi đó, và cứ để Bố yên mô yên mả ở giữa miền Viễn Tây.
Có nhiều khi tôi tự hỏi không biết cuộc đời sẽ ra sao nếu Bố còn sống.  Có lẽ tôi đã đi học và biết đâu đã trở thành một luật sư hay cái gì đó.  Có lẽ sẽ không bao giờ rớ tới khẩu súng.
Đêm trước khi rời Wichita, Bennett đã nói với tôi là mảnh đất này cần thêm nhiều những người như tôi, kẻo không những tay súng toàn bên phe ác.  Bên phe thiện chẳng có ai.  
Không phải là tôi không biết điều đó, nhưng đôi khi khó có thể phân biệt đâu là chính, đâu là tà.


Chúng tôi cứ đi mãi, đi về những vùng hoang dã hơn.  Chúng tôi có lần đụng độ với mọi Comanches.  Lần đó không ai chết ngoại trừ một con ngựa của tụi mọi bị bắn.
“ Tao không bao giờ quên được lần mày cứu mạng tao,” Mustang nói.
“ Lần nào?”
“ Lần mấy thằng Kiowas đó.  Lần đó tưởng chết chắc rồi.  Ngựa thì chết, chân thì trúng đạn, mà súng thì chỉ còn dăm viên đạn.  Thấy mày mừng hết lớn.”
“ Tại đến giờ ăn mà chưa thấy mày về.”


Chúng tôi bắt đầu lên miền núi cao hơn.  Đêm bắt đầu lạnh.  Sáng sớm có sương mù.  Những con sơn dương bay nhẩy xa xa, và ban đêm có tiếng chó sói tru.  
Có lần chúng tôi gặp một itểu đội lính đi truy lùng mọi Cheyennes.  Chúng tôi nói chuyện và xin thuốc lá.  


“ Mình có đi Denver không?” Mustang muốn biết.
“ Ừ.”
“ Tao muốn mua một cái áo lông cừu.  Ở đây gió lạnh quá.”
Tôi vẫn miên man suy nghĩ về Burdette.  Đã đến lúc phải giải quyết thằng đó.  Tôi sẽ không giết nó.  Giết nó không, chưa đủ.  Tôi phải hạ nhục nó trước mặt mọi người.  Một tay súng mà đã mất mặt rồi thì chỉ có nước chết.  Trước sau gì cũng sẽ bị chúng truy lùng cho bằng được.  Trước sau gì cũng chết.  Chỉ có nước bỏ xứ mà đi.


Cuối tháng chín chúng tôi đặt chân đến Denver trong lúc tuyết đang rơi.  Vì rủng rỉnh tiền bạc nên chúng tôi vào khách sạn sang nhất ở.  Tôi hôm đó tôi nằm nhìn lên trần nhà suy nghĩ.  Cứ lang thang mãi như thế này cho đến bao giờ? Giờ tôi đã có ít vốn, đã đến lúc dừng chân, xây dựng một gia đình.  Đã đến lúc phải lấy vợ.
Tôi hơi giật mình với ý nghĩ bị cột chân.  Ngay bây giờ thì muốn đi là cứ việc đi.  
Nhưng Logan Pollard cũng đã dừng chân.  
Logan.  
Lâu quá rồi chưa gặp.  


Tôi thức dậy, ra đổ nước vào thau, rửa mặt.  Tôi lấy khăn lau khô và nhìn mình trong gương.
Một khuôn mặt nhẵn nhụi, rám nắng, tóc quăn chải ngược lại.  Một khuôn mặt với gò má cao và cằm vuông, nhưng đôi mắt thì xanh màu lục, và cái miệng không cười.


Không tốt.  Đàn ông phải cười.  Đôi mắt tuy có hơi lạnh lùng.  Nhưng trong lòng đâu thấy lạnh đâu.  Không có mấy người bạn, nhưng tối ngày đi lang thang khắp nơi thì làm sao có bạn.  Bù lại, những người bạn có được lại là những người rất tốt.  Logan Pollard, Hetrick, và bây giờ Mustang Roberts.  À, còn Billy Dixon, Ogg, và Bennett.  Toàn là mấy người tốt không.


Nhưng rồi sao? Cái mà tôi giỏi hơn người khác lại chính là cái tôi không muốn làm.  Có thể, như lời Bennett, miền Viễn Tây cần thêm những tay súng.  Có thể ở những vùng không có luật lệ, phải có gì để kiềm chế lũ vô pháp.  Nhưng tôi không muốn làm công việc đó.
Hai mươi tuổi đầu, bốn mạng người chết , và một đôi mắt hơi lạnh, hơi xa vắng, hơi thận trọng.  Tôi muốn chấm dứt, tôi muốn bỏ hết.
Nhưng việc phải làm thì cứ làm.  Tôi trở lại giường, cố dỗ giấc ngủ.  Khi trời sáng thì tôi đã ngủ được khoảng một giờ đồng hồ.  


Bên ngoài, tuyết phủ độ nửa thước.  Ngoài đường, người ta đang xúc tuyết cho sạch lối đi, hơi thở bốc khói trong khí lạnh.   Trời này mà đi đâu bây giờ.  Nhưng đi thì vẫn cứ phải đi.
“ Hetrick chết mấy tháng rồi,” Roberts cãi.  “ Việc gì mà phải vội vàng.  Thằng Burdette nó có đi đâu đâu.  Mà có đi thì càng tốt chứ sao.”
Nghe cũng có lý.  Đi qua những dặng núi đó trong mùa đông không phải là trò đùa.  Lúc đó, Denver đang phát triển sầm uất và kỹ nghệ bài bạc cũng nối gót theo sau.  Tôi tuy có đánh phé nhưng không phải là người có máu cờ bạc.  Tuy nhiên những sòng bạc mở khắp nơi chào đón quyến rũ, và dù sao đi nữa thì tôi vẩn chỉ là một thằng nhóc.  
Thế là tôi và thằng Mustang vào hết, không thiếu một sòng nào.  Nhà Xác, Xô Máu, Cung Điện,
Chuồng Gà, và Thị Trường Murphy.  Cái nào cũng mở.  Cái nào cũng đông.  
Ở đó có mặt thằng Soapy Smith, một thằng mà tôi sẽ nói tới sau.  Bat Masterson cũng có mặt trong thành phố, và Doc Holliday trên đường đi Texas, ghé qua.  Kit Carson ở đó khá lâu, một thằng trong đám anh em thằng Bent đến từ New Mexico.


Một buổi tối sau khi chúng tôi trở về khách sạn và tôi và Mustag đang ăn tối thì nó huých cùi chỏ vào người tôi.  
“ Rye, có khứa kia đang để ý mày kìa.  Hắn theo dõi mày khá lâu rồi.  Mày có vấn đề gì ở miền đông không?”
Mustang là một thằng tóc vàng với khuôn mặt cô hồn.  Bắn súng thì cũng thường thôi, nhưng đánh nhau thì chẳng thua ai.  Nó cũng rất tinh tế sắc bén, và vì thế khi có dịp, tôi liếc nhìn chung quanh.
Một anh có vẻ lịch sự ngồi phía bên kia phòng.  Hắn dáng người cao ráo, tóc bạc ở mang tai, và khá đẹp trai.  Anh ta trạc độ năm mươi nhưng ăn bận bảnh bao.  Khi tôi nhìn quanh thì chạm phải đôi mắt của anh ta, và rồi anh đứng lên tiến về phía tôi.


Tôi không còn dại dột như hồi ở New Orleans.  Quần áo đẹp tôi đã cất hết trong phòng.  Tuy vậy, tôi vẫn trông không đến nỗi nào.  Tôi đi giầy bốt da bò màu đen, mặc áo len xám, đeo một cà vát giây màu đen, và khoác ngoài một chiếc áo khoác ngắn kiểu Mễ mua ở Texas.  Và tôi mặc quần màu xám, ống nhét vào trong bốt.


Tôi nghĩ không ra anh chàng là loại người nào.  Trông anh ta không có vẻ là dân bài bạc, và anh ta không đeo súng.
Anh ta đứng cạnh bàn của tôi.  “ Xin lỗi, tên tôi là Denison Mead.”
Tôi đứng lên.  “ Tôi là Ryan Tyler,” tôi nói, “ Và đây là Mustang Roberts.  Mời anh ngồi xuống.”
“ Cám ơn anh.” Anh ta ngồi xuống và ra dấu cho nhân viên phục vụ mang một chai vang tới.  
“ Tôi là luật sư,” ông nói, “ Đại diện cho công ty khai mỏ.  Tôi đang đi khảo sát vài địa điểm có vàng.”
“ Nghe có vẻ khá nhỉ.  Tôi chuyên mua bán bò.”


Chúng tôi ngồi nói chuyện vãn một hồi.  Anh ta không đá động đến lý do tại sao đến nói chuyện.  Anh ta có vẻ dễ thương nhưng tôi nghi ảnh đang dò xét cái gì.  Tuy không hỏi nhiều nhưng lối nói chuyện của ảnh dễ khuyến khích người ta moi gan rút ruột ra mà thổ lộ.  Nhưng tôi là dân chơi phé nên đâu có dễ gì thấy được tẩy của tôi.  Vả lại tôi cũng chẳng có gì để mà dấu giếm.
 
“ Anh quê ở đây hay ở Texas?”
“ Ôi dào, tôi rầy đây mai đó,” tôi nói.  “ Nhưng tôi định bụng thể nào cũng kiếm một căn trên núi.  Một cái trang trại.”
Anh nhìn tôi một cách trầm ngâm.
“ Anh khoảng hai mươi? hay hai mươi mốt?”
“ Hai mươi,” tôi nói.
Rồi chúng tôi nói chuyện trâu bò và tôi nói vừa mới đi Kansas City và New Orleans về.  
“ Anh quê ở bển hả?”
Lối anh ấy chêm câu hỏi một cách bất ngờ và câu chuyện làm tôi đâm ra nghi ngờ.  Cái vụ bắn người ở New Orleans.  Trừ phi có đứa ăn cắp, bằng không người ta phải thấy thằng Woods tay cầm khẩu súng, nhưng ai biết thằng Chris Lillie nó khai cái gì.  Nhưng hạng như nó chắc không khai báo.
“ Không phải,” tôi nói cuối cùng,  “ Tôi sanh ở Maryland.  Ông già nói vậy.  Khi bé thì ở New York, rồi sau trôi giạt về Missouri và Kansas.”
“ Lang bạt kỳ hồ cũng dữ há.” Ông nói xong rồi ngưng.  Tôi là dân chơi phé nên giỏi nhìn mặt.  Và biết là sẽ có câu hỏi tiếp theo.
“ Anh sống không nhà không cửa,” anh nói.  “ Thì có phải quê hương là nơi cha mẹ sống không?”
“ Má tôi chết trên đường Tây tiến,” tôi giải thích.  “ Cha tôi bị mọi giết khi tôi mới lên mười hai.”
“ Tôi từng nghe những câu chuyện tương tự như vậy,” anh nói.  “ Có lẽ đấy là một phần của lịch sử miền Tây.  Người ta ngã xuống để cho đất nước vững mạnh.  Nhưng không phải ai cũng chết trận.”


“ Cha tôi chết trận,” tôi nói, và rồi kể chuyện anh nghe.  Những chuyện Mustang cũng chưa nghe bao giờ.  Kể chuyện nào là mẹ tôi ốm đau mà không có thuốc men đầy đủ mặc dù bố tôi đã cố gắng hết sức mình.  Và rồi bà mất đi và chúng tôi đi về hướng Tây.  Tôi kể hết và kể cả những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông, về đoàn xe bỏ rơi chúng tôi, và về trận đấu tại khe suối.
Nhưng tôi không kể về mấy thằng mọi da đỏ hay về Jack McGarry.
Anh ta là người dễ tâm sự.  Tôi kể về Logan Pollard and về cuốn sách Plutarch.


“ Thế anh có đọc cuốn đó năm lần không?”
“ Mới có bốn lần,  Nhưng có thì giờ sẽ đọc tiếp.”
“ Và cái chỗ mà anh sẽ đến---Ngả Ba Mason?  Có tính ở lại đó một thời gian không?”
“ Có thể,” tôi nói, “ Nhưng cũng có thể tôi sẽ đi tiếp.”


Sau khi anh ta đi thì tôi ngồi suy nghĩ.  Đâu có nghe nói có ai truy lùng tôi đâu.  Tôi giết thằng Woods là để tự vệ.  Vả lại hạng người như nó, có chết cũng không mấy người để ý.  Nhưng thế sao tôi vẫn cứ lo lắng.
Đánh bạc chán, tôi mua một lô sách mang về phòng đọc.  Ngoài đường gió bão ùn ùn, và cứ cách vài ngày lại tuyết.  Mấy các đèo đều không cách gì có thể băng qua được.  Tiếng chuông xe tuyết leng keng ngoài đường và lò sưởi trong tửu quán rực rỡ màu đỏ của quả anh đào.


Ban tối chúng tôi ngồi quanh lò sưởi phòng khách khách sạn tán dóc.  Tôi không hay nói nên chỉ ngồi nghe.  Ở đó có dân làm hầm mỏ và chăn bò, dân cờ bạc gạo, dân lang thang, và thương gia.  Họ là những người đi nhiều, biết nhiều, và nói nhiều.


Tôi đọc vài cuốn sách viết bởi ông văn sĩ tên Dickens, và tôi đọc cuốn Nét Chữ Ô Nhục của Hawthorne.  Tôi cũng đọc thơ của một ông thi sĩ người Ăng Lê lên Byron mà tôi rất thích.


Một hôm khi trở về khách sạn, tôi thấy anh luật sư đang ngồi đó chờ sẵn.  Anh ta có vẻ nóng lòng muốn nói chuyện riêng nên chúng tôi lên phòng.  Sau khi đóng cửa phòng lại thì ông nói với tôi.  “ Tyler, tôi có nghe phong phanh vài chuyện.  Đừng về Ngã Ba Mason nữa.”
Tôi khựng lại vài phút rồi nói,  “ Tại sao?”  Tôi hơi bực mình vì không muốn người lạ xía và chuyện riêng tư của mình.
“ Burdette sẽ giết anh.”
“ Tôi không nghĩ vậy,” tôi nhìn thẳng vào mắt anh,  “ Bề nào đi nữa thì tôi cũng trở lại đó.”
Anh ta không nói gì thêm, và đi qua đi lại trong phòng.  Rồi bất thình lình anh ngừng lại.  
“ Anh đã thực sự giết bao nhiêu người tồi hả Tyler?”
“ Chuyện không mắc mớ gì tới anh hết.”
Anh nhìn tôi một hồi lâu, mắt như tìm kiếm một cái gì.
“ Dĩ nhiên,” anh nói, “ Anh nói phải.  Không mắc mớ gì tới tôi hết.  Duy có điều….  thôi, cũng chẳng sao.”
Anh đứng lại ở ngưỡng cửa.  “ Làm gì thì làm, ráng giữ mình.  Có thể tôi sẽ liên lạc lại với anh sau.”


Ngày hôm sau tôi nghe nói anh lấy xe ngựa đi Cheyenne.  Chẳng ai biết nhiều về anh ngoại trừ việc anh đang truy tìm vài chứng thư hầm mỏ và vài địa điểm khoáng chất.
Hai ngày hôm sau thời tiết bớt lạnh và tôi đánh thức Mustang dậy.
“ Dậy xếp đồ.  Mình sửa soạn đi.”
Hắn không cãi nửa lời, và một tiếng sau chúng tôi cưỡi ngựa ra khỏi thành phố, đi về hướng Tây.  Lối chúng tôi đi, quành về hướng Nam ngang qua Durango, và khi tuyết tan, chúng tôi đi khá nhanh.
Đến tối khuya thì chúng tôi tới Durango và sáng hôm sau tôi thấy một nàng da đỏ bán quần bàn tọa làm bằng da nai, và mua vài cái.  Tôi bắt đầu cảm thấy như đang ở nhà.
Đây là vùng đất của tôi.  Tôi yêu cái không gian rộng lớn, thoáng thoát, cái không khí trong lành.
Trong khi cưỡi ngựa thì tôi nói cho Mustang nghe về anh chàng Denison Mead và những gì anh ta nói về Ngã Ba Mason.


“ Lời khuyên cũng hợp lý,” Roberts nói, “ Nhưng tại sao anh chàng lại quan tâm đến như vậy?”
“ Cũng chẳng hiểu, trừ phi hắn có quen biết với Burdette.”
“ Không phải đâu.  Nhưng hắn thắc mắc hơi nhiều về mày.”


Nhưng rồi chúng tôi cũng quên đi, vì chúng tôi đang về miền đất của tôi, và đâu gần đây là trang trại của tôi, và tôi sẽ gặp lại Liza và con Ô của tôi.  Bà Hetrick không khác nào người mẹ ruột của tôi.  Lâu quá rồi.  Và Ketrick đã ra người thiên cổ.
Còn vày cây số nữa thì tới trại và tôi cầm lòng không đặng.  Tôi giựt dây cương và con Xám bắt đầu phi nước đại.  Mustang cũng quất ngựa chạy theo.  Khi thấy bóng dáng thành phố thì tôi bọc ngả sau, chạy về hướng trang trại.  Tôi phóng con Xám qua cổng trại rồi ngừng lại.


Cỏ dại mọc cao khắp nơi.  Cổng trại xệ xuống và cửa nhà mở trống, đóng sầm lại sau mỗi cơn gió.  
Tiếng gió hú thổi qua, vang vọng giữa những dặng thông và mép mái nhà, và tôi đứng đó nhìn quanh, một cảm giác cô đơn trống vắng nổi lên ở trong lòng.
Tôi xuống ngựa và đi quanh nhà.  Tất cả đều trống trơn.  Căn nhà không có người ở đã lâu.
Không biết Liza giờ này đang ở đâu.


Chương 11



Khu Ngã Ba đã có vẻ mở mang hơn xưa.  Cửa tiệm, hàng quán, tất cả đều rộng lớn hơn.  Quán trọ lụp xụp khi xưa giờ đã trở thành một khách sạn hai tầng với một mái hiên chạy dài mặt trước.
Tôi quày ngựa đi về hướng nghĩa địa.  Mustang cho ngựa theo sát gót.  Khi tới cổng nghĩa địa, tôi xuống ngựa đi vào.  Như đa số nghĩa địa miền Viễn Tây thời ấy, đó là một mô đất nằm ngoài thành phố với những cơn gió lộng thổi về từ bốn phương và những đám cỏ lăn nằm xoắn vào thành hành rào.  Và ở nơi đó, tôi đã tìm được câu trả lời.  Nằm ngay cạnh bên ngôi mộ của Hetrick là mộ của bà vợ, chết bốn tháng sau.
Cả hai đều đã ra đi.
Còn Liza? Có thể nàng vẫn còn trong phố, tuy nhiên tôi không nghĩ vậy---


“ Mustang,” tôi nói, ” Tao phải bắt sống thằng Burdette.  Tao muốn mày vào phố nghe ngóng coi xem hắn còn đó không, và nếu còn thì ở đâu.  Coi chừng cẩn thận vì thằng Burdette này rất hung dữ.”


Và rồi tôi ngồi dưới gốc lùm cây bách hương trong nghĩa địa, chờ đợi.  Mãi đến khi thành phố lên đèn rồi thì mới thấy bóng dáng thằng Mustang trở lại.  Nó xuống ngựa, rồi ngồi xổm xuống đốt thuốc hút.  


“ Burdette vẫn còn đó.  Đúng là một hung thần.  Người ta không thích nhưng sợ hắn.   Mỗi tối khoảng giờ này thì nó đi tuần tra.  Rồi trở về quán rượu và ngồi đó cho đến khi mọi người đi ngủ thì hắn lại đi một vòng nữa rồi mới ngủ.
“ Buổi sáng, hắn khệnh khạng ra tiệm ăn sáng, rồi ngự trị ở đó như một ông tướng quảng lạc.  Hai tuần trước hắn lại mới giết một người nữa.  Dân thành phố có vẻ chán hắn lắm rồi.”
“ Ăn chưa?”
“ Rồi.”
“ Thế thì mình ngủ tạm đây đêm nay.  Tao muốn thộp cổ nó lúc ăn sáng.”
“ Nhà hàng có cửa sau.  Mày có muốn tao đi ngả sau vào chộp nó không?”
“ Không.  Mày chỉ cần trông chừng không cho thằng nào vào ngả đó là được rồi.  Đây là chuyện của tao.  Tao sẽ tự giải quyết.”


Khi chúng tôi đã cuộn tròn trong chăn và nằm lắng nghe tiếng động của thành phố, thì hắn bỗng nói, “ Con bồ mày? Liza Hetrick? Nó bỏ thành phố đi độ sáu, bẩy tháng trước rồi.  Trong túi nó chỉ có sáu mươi ba đồng bạc.  Đi chuyến xe ngựa. rời khỏi miền Tây.”
“ Mày đáng lý phải làm nghề thám tử mới phải.”
Mustang rít một hơi thuốc dài.  “ Biết đâu chừng đó.”  Hắn cười.  “ Nhưng trước tiên phải đi tìm bồ của mày trước đã.”


Trời tờ mờ sáng là chúng tôi đã gói cuộn chăn mền sẵn sàng.  Rồi đi theo con đường mòn về phố, qua những con hẻm cho đến khi Mustang có thể chỉ cho tôi cửa sau của nhà hàng.
“ Mình có thể sẽ phải cuốn gói giông nhanh.”
Mustang cười khúc khích.  “ Mày cứ lo chạy.  Tao sẽ theo sát đít, có thể chạy trước mày không chừng.”


Chúng tôi xuống cột ngựa  và đi vào.
Mustang mở cửa vào trước, còn tôi cúi đầu theo sau.  Nhà hàng có bốn người: bà chủ, thằng cha già Mason, và hai tên chăn bò từ khu suối về.
Bốn người ngoài Burdette.  Nó đang ngồi trên một bàn quay mặt về hướng cửa.
Khi chúng tôi vào độ ba bước thì thằng Mustang bước qua một bên và tôi đứng, nhìn thẳng vào cặp mắt hung ác màu xám của Ollie Burdette.
Nó ngạc nhiên.  Chuyện đó đã hẳn.  Tôi bước lại sát gần, nói bằng một giọng to và dõng dạc.
“ Burdette, mày đã giết Hetrick, một ông già chưa bao giờ đeo súng.  Và mày đi rêu rao là mày đuổi tao khỏi thành phố.  Mày giết chỉ vì ông ta là người duy nhất biết mày nói láo.”


Nó không kịp mở miệng, và khi nó nó thả tay xuống thì tôi đẩy sát cái bàn vào tường.  Tôi sáng cho nó hai cái bạt tai như trời giáng.  Tôi nổi cơn điên, nhưng không muốn giết nó.  Khi nó thò tay móc súng thì tôi đấm vào mặt nó.  Nó té lảo đảo và tôi đưa chân đá bay súng nó đi. Nó đưa tay lên che mặt và xấn tới tôi, nhưng nó là đứa quen dùng súng.  Và mặc dù nó to và nặng hơn tôi nhưng không phải là đối thủ.  Tôi đấm vào bụng nó, rồi đấm vào mặt.  Cú đấm cuối đó làm toạc mặt nó ra, đầu nó đập vào cạnh bàn.  
Tôi nắm cổ và lôi nó ra cửa, cứ đi mỗi bước lại tát một cái.  Tôi đẩy nó ra khỏi cửa, bay ra ngoài đường, té cái huỵch xuống đất.  Nó bắt đầu đi dật lùi, và tôi đi theo.  
Tôi lôi nó đứng lên và tiếp tục cho nó một trận đòn chí tử, ngay trước quán rượu, với năm mươi người đứng xem.  Khi nó loạng choạng đứng lên, tôi đánh đánh bể miệng nó.
Tôi xô nó vào cái máng nước cho ngựa uống.  Rồi tôi móc nó ra và dựng nó dậy.


“ Mày giết Hetrick là coi như mày đã giết vợ người ta.  Mày khoe là mày đuổi tao ra khỏi phố.  Mày chỉ là một thằng hạng bét trong một thành phố hạng bét.”


Nó không nói được vì mồm miệng nó đầy máu.
“ Mày có ngựa không?”  Tôi nói.
“ Để tôi lấy.” Một giọng nói quen thuộc và tôi nhìn lại.  Đó là Kipp.
Burdette đứng đó, ướt sũng và run rẩy.
Nó lúc lắc cái đầu như một con gấu bị thương.  Mọi chuyện xẩy ra quá nhanh.  Khi Kipp dắt ngựa trở lại thì tôi bảo Burdette leo lên ngựa.  “ Cút ra khỏi chỗ này.  Đừng có mà tính chuyện trở lại.”
“ Còn tài sản của tao,” nó phản đối.  “ Còn đồ đạc trong nhà của tao thì sao.”
“ Coi như mất hết rồi,” tôi nói, “ Giống như Hetrick đã mất trang trại của ổng.”
Nó trừng mắt nhìn tôi.  “ Còn súng của tao? Không có súng là tao coi như rồi đời.”
“ Không có súng ống gì cả.”
Nó không nói gì nữa, chỉ lẳng lặng dắt ngựa trên đường ra khỏi thành phố.  Có vài tiếng vỗ tay lẻ tẻ.  Người ta cũng vẫn còn trong cơn sốc.


“ Kipp,” tôi hỏi,  “ Liza đi đâu rồi?”
“ Không biết nữa Rye ạ.   Sau khi mẹ chết, nàng cố sống tự lập, không thèm nhận sự giúp đỡ của bất cứ người nào.  Trang trại chẳng còn gì vì sau khi Hetrick bị giết thì lũ cướp ngựa đến lùa hết ngựa đi.  Tôi chỉ biết nàng mua vé xe ngựa đi Alta.  Khi đến đó chắc nàng chỉ còn khoảng bốn mươi đô la.”


Tôi và Mustang lên ngựa rời khỏi thành phố đêm hôm đó.  Ngã Ba không còn gì để tôi quyến luyến nữa.  Còn thằng Mustang, nó chỉ muốn đi theo tôi.  
Không kiếm đâu ra được một người bạn tốt như vậy.


Alta là một thành phố hầm mỏ đang phát triển ở giữa tiểu bang Utah, nhưng không phải là một thành phố Mặc Môn.  Dân cư đa số là những thợ mỏ đến từ Nevada hay Colorado.  Nhiều người đã từng làm việc ở Mạch Mỏ Comstock và có người đến từ khe vàng Alder ở Montana.
Tôi có nghe nói về Alta. Đó là một thành phố nguy hiểm, ngày nào cũng có người bị giết.  
Nhưng tôi đến với một mục đích rõ rệt.  Tôi phải tìm cho bằng được Liza.  Không thể để một đứa con gái mới mười bẩy tuổi một thân một mình ở một chốn nguy hiểm như thế này được.


Khi chúng tôi vào đến thành phố thì trời đang tuyết.  Tôi để Mustang đi tìm khách sạn, còn tôi thì đi vào một quán rượu.   Quán rượu là câu lạc bộ, là nơi gặp gỡ và thâu thập tin tức.  


Ngoài trời, tuyết bắt đầu đổ nặng, và ngoại trừ con đường lộ, nơi người ngựa và xe cộ qua lại dẫm thành bùn, mặt đất khắp nơi phủ một lớp trắng tinh.  Những chiếc xe ngựa khổng lồ ì ạch chạy qua, người lái xe trong bộ quần áo dầy cộm, hét hò những con ngựa đang gồng người kéo xe tải nặng.


Khi tôi đẩy cánh cửa của tửu quán Xô Máu thì một làn hơi nóng, sặc mùi thuốc lá và rượu uýt ki đổ sập vào mặt tôi.  Căn phòng nhỏ chứa tối thiểu một trăm người đứng ngồi la liệt khắp nơi.  Những người râu ria xồm xoàm đứng dựa tường đợi có ghế trống là ngồi xuống.
Đó là một cảnh tượng quen thuộc mà tôi đã từng gặp ở những thành phố khác.  Có cả những khuôn mặt quen thuộc của những người đã từng gặp ở Santa Fe, Denver, hay Ngã Ba Mason.
Tôi chen lấn để tiến đến gần quầy rượu.  Bên cạnh tôi, hai người đang nói chuyện bằng tiếng Na-Uy, và nơi quầy rượu một người gọi rượu bằng tiếng Đức và người bán rượu trả lời bằng cùng ngôn ngữ.  Đây là miền Tây, một nồi luyện kim.  Đây là nơi tụ tập của những tay du thủ du thực từ khắp nơi trên thế giới, lôi cuốn bởi sự quyến rũ của một đất nước tân lập và cơ hội làm giầu trong hầm mỏ.
Hai giờ đồng hồ sau, tôi vẫn không có được tin tức gì của nàng.  Tôi không hỏi ai, chỉ la cà hết nơi này đến nơi khác, nghe ngóng, để ý.  Bến xe đã đóng cửa nên không thể đến hỏi được.  
Tuyết vẫn đổ ào ào.  Tửu quán Con Gái Người Thợ Mỏ đông đã nghẹt người khi Mustang tìm ra tôi nơi đó.
“ Kiếm ra chỗ ở rồi,” nó nói, “ Không dễ tí nào.  Thành phố này đông nghẹt người.”


Chúng tôi đi từ bàn này sang bàn kia.  Uống sơ sơ, đánh bạc lai rai.  Khi tôi quay lại phía cửa thì bỗng có một người nhìn thấy tôi và quay ngặt trở ra.  Hắn đã biết tôi từ chỗ nào đó.
Bỗng có tiếng chửi thề, và một người mặc quần áo thợ mỏ lui dần, hai tay ôm bụng.  Hắn ngồi thụp xuống và nằm lăn ra và rên rỉ khe khẽ.
Một thằng dân đánh bạc, tay  cầm khẩu súng, bước ra khỏi bàn và chỉa súng sửa soạn bắn thêm một phát nữa.  
Chẳng biết tại sao, tôi bước ra khỏi đám đông.
“ Người ta sắp chết rồi.  Đừng bắn nữa.”


Thằng chơi bạc mặc áo sơ mi và áo gi-lê.  Nó có tướng cao dong dỏng, mặt trắng và có ria mép.  Nó có một cặp mắt tàn ác chưa từng thấy.  Nó nhìn tôi lạnh lùng.
“ Mày muốn xía vào hả?”
Nó cầm một khẩu súng ngắn có hai nòng lớn, mỗi nòng 44 li.
“ Đúng thế.”
Nó nhìn tôi.  Súng nó cầm sẵn trong tay.
Súng tôi còn trong bao.  Nó còn một viên đạn, và nếu nó không bắn trúng thì nó chỉ có chết.
Hắn nhún vai.  “ Trước sau gì thì nó cũng chết.  Chảng cần phí đạn làm gì.”


Người đàn ông nằm dưới sàn ho rũ rượi và nhìn thằng đáng bạc.
“ Ăn gian---mày chơi ăn gian--” và rồi rũ người xuống chết.
Người đó có đeo súng, nhưng súng nhét kín dưới áo khoác ngoài.   
“ Nói láo,” thằng đánh bạc nói một cách khinh bỉ.  “ Thua quá rồi đổ thừa.”
“ Người ta cất súng kỹ như vậy thì làm sao mà sử dụng được.”  tôi nói.


Thằng đánh bạc xoay người lại, mặt mũi tái mét vì giận dữ.  “ Mày câm cái mồm mày lại,” nó thét lên.  “ Tao không nhịn nữa đâu đấy.”
“ Nếu tao là người có quyền ở đây,” tôi nói, “ thì sẽ tống cổ mày ra khỏi thành phố, không bao giờ cho trở lại.  Đây là một vụ sát nhân.”
Khẩu súng hai nòng bắt đầu nhấc lên từ từ.  Và vừa khi tôi sửa soạn rút súng, thì nghe tiếng Mustang nói.
“ Súng của thằng bạn tao chưa rút nhưng súng tao thì đã ra khỏi vỏ rồi.”
Thằng đánh bạc nhìn họng súng đen ngòm chỉa vào người, rồi nhún vai bỏ đi.


“ Ông bạn có biết là ông bạn đùa với lửa không,” một người thợ mỏ nói nhỏ.  “ Đó là Key Novak.  Nó đã giết ba người trong vòng hai tháng vừa qua.”


Tôi và Mustang xoay người bước ra ngoài đường.  Mới đi có vài bước thì có tiếng cửa đóng sầm và tiếng chân người đi trên lề đường.
Đứng ép sát người vào ngưỡng cửa với súng trên tay, tôi nhìn ba người bước đi trên lề đường.  Mustang đang đứng bên kia đường, núp sau một cái máng nước và cột hàng hiên.
Mấy người đó tiến lại gần và qua ánh sáng từ cánh cửa gần đó tôi nhận ra người đã thấy mặt tôi trong quán rượu.  Họ ngừng lại, và người này nói.  “ Tyler, anh không biết tôi, nhưng tôi đã biết  anh hồi ở Kansas City. Tôi có nghe Billy Dixon nói về anh.”
“ Rồi sao?”
“ Tôi nghe nói anh là người đã giết Rice Wheeler và Leet Bowers?”
“ Đúng thế.”
“ Tyler, thành phố này cần một cảnh sát trưởng như anh.  Một người có khả năng dẹp sạch lũ cờ bạc và du đãng.  Nội tối hôm qua không thôi đã có hai vụ đâm nhau bằng dao.  Không biết thủ phạm.  Tuần trước có một người thợ mỏ chết.  Tụi du đãng lộng hành coi trời bằng vung.  Chúng tôi sẽ trả anh hai trăm năm mươi đồng một tháng.”


Tôi ngạc nhiên, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm cảnh sát trưởng.  Nhưng mặt khác, chẳng có cách nào tốt hơn để tìm kiếm Liza.


“ Cũng được,” tôi nói,” Nhưng tôi muốn Mustang làm phó.”
“ Không có gì là trở ngại cả.” ông nói.  “ Tên tôi là Murdock.  Tôi làm chủ tiệm chạp phô.  Đây là Eph Graham, đại diện cho ngân hàng Wells Fargo.  Còn Newton có cửa hàng sắt thép và dụng cụ hầm mỏ.  Chúng tôi là thành viên của hội đồng thành phố.”
“ Được rồi.”
“ Một điều nữa---cảnh sát trưởng đương nhiệm là John Lang.  Hắn là một tay súng Texas.  Phải đuổi hắn.”


Tôi nhìn ba người.  Một chiếc xe đi qua trên đường và tiếng vó ngựa kêu lộp cộp.
“ Tôi là người phải đuổi hắn?” tôi hỏi.
Newton trông có vẻ ngượng nghịu, và Murdock nhịp nhịp chân, nhưng Graham gật đầu.
“ Hắn rất nguy hiểm---và chúng tôi nghĩ hắn cũng thông đồng với tụi lưu manh.”
Chỉ tay vào những quán rượu đầy người, tôi nói, “ Không phải là chuyện dễ.  Khó có thể tránh đổ máu.”
“ Chúng tôi sẽ đứng sau lưng anh. Có thể tổ chức dân quân nếu anh muốn.”
“ Không cần.”


Murdock thọc tay vào túi rút ra mấy cái huy hiệu, đưa cho tôi.  Tôi lắc đầu.  “ Cái này cũng được, nhưng tôi cần giấy tờ có chữ ký của tất cả ba vị, ủy quyền cho tôi.”
Họ đưa ngay cho tôi và thế là tôi là cảnh sát trưởng Alta, Mustang Roberts là phó.


Họ bỏ đi và chúng tôi đứng đó.  Mustang nhìn tôi, toét miệng cười.
“ Khoái trò chơi nguy hiểm hả?” rồi nó nói thêm, “ Giờ làm gì”
“ Phải đi đuổi cổ thằng cảnh sát trưởng trước.  Tao đuổi nó.  Mày chỉ việc đứng nhìn.”


Thế là chúng tôi đi về phía văn phòng cảnh sát trưởng và tôi cảm thấy mình may mắn có thằng bạn như Mustang Roberts đi cạnh bên.

Chương 12



Tòa nhà vuông vức phía trước khám đường có hai phòng: phòng bên ngoài làm văn phòng, và phòng bên trong là chỗ cảnh sát trưởng nằm ngủ.
John Lang đang ngồi gác chân trên bàn, và một người râu ria xồm xoàm ngồi trên cái tủ sắt cạnh tường.   
Sàn nhà bừa bộn bẩn thỉu, mẩu xì-gà và thuốc lá cùng những tờ giấy ố vàng nằm vương vãi khắp nơi.  Có một cái giá dựng nhiều khẩu súng trường và shotgun.


Tôi đẩy cửa bước vào.  Lang ngẩng đầu lên và nhìn thấy huy hiệu trên ngực tôi.
“ Mày là ai?”
“ Cảnh sát trưởng mới.  Đến giải nhiệm mấy người.”
Tên râu ria cười rộ.  “ Đi chỗ khác chơi, nhóc con.  Không ai đuổi được tụi tao.  Phải không Hal?”


Biết là khó có thể nói chuyện phải trái với mấy đứa này, tôi đá chân John Lang rớt xuống sàn.  Nó vừa nhổm người dậy, chực thò tay rút súng nhưng tôi đấm vào mõm và nó té ngửa ra ghế.
Chuyện xảy ra nhanh đến nỗi thằng phụ tá không kịp mở miệng thì tôi đã quay lại dộng một quả vào mặt khiến đầu nó đập vào tường kêu cái rầm.
Tôi quay lại, vừa đúng lúc Lang rút súng ra khỏi vỏ.  Tôi móc súng bắn nó.  Viên đạn đầu xuyên qua cổ họng, viên thứ hai trúng giữa lồng ngực.  Nó nằm thẳng cẳng dưới sàn, không nhúc nhích, không cục kịch.
Rồi tôi quay lại thằng phó, đã bị tước súng bởi Mustang.  “ Mày cũng bị đuổi luôn.  Mày có muốn thử rút súng không, hay mày muốn bỏ xứ mà đi?”
Nó muốn rút lắm nhưng cũng sợ chết.  Nó nhìn tôi một hồi rồi nói.  “ Bão ngớt, rồi tao sẽ đi.”
“ Đi ngay bây giờ.  Bão hay không bão cái gì.  Một tiếng đồng hồ nữa mà còn thấy mày láng cháng nơi đây, thì một là chết, hai là nằm khám.”
Nó nuốt nước bọt, chịu trận.  “ Rồi sẽ đến tai Billings.  Lúc ấy thì mày có mà chạy đàng trời.  Ổng sẽ đập cho mày và những thằng trong hội đồng thành phố một trặn tan tành.”
Tôi thọc cho nó một quả nữa.  “ Xéo.” tôi nói, và nó cút mất biệt.  Mustang bỏ khẫu súng vào ngăn kéo rồi lấy giấy, vấn điếu thuốc rê.  “ Mày có biết không,” nó nói.  “ Hồi mày mới nhập bọn chăn bò bên Texas, tụi nó tưởng mày là  con nhà lành.”


Tôi nhìn chung quanh căn phòng bẩn thỉu.  Văn phòng như thế này mà làm sao người ta tôn trọng luật pháp cho được.  Tôi nói với Roberts  “ Mày làm phó cho tao.  Tụi mình sẽ thi hành luật lệ cho nó nghiêm chỉnh.  Không cờ gian bạc lận.  Không trộm cắp.  Không ức hiếp kẻ thế cô.  Không đấu súng.  Không xâm phạm tình dục.”
“ Đánh lộn thì sao?”
“ Miễn sao đừng bể đồ bể đạc.  Nếu hai bên đồng cân đồng lạng thì để nó đánh nhau cho đã.     Nếu không, thì can thiệp.  Chúng ta giúp kẻ yếu đuối, vô tội, và người dân làm ăn lương thiện.”
“ Được rồi.” Nó nhìn xác thằng Lang.  “ Phải khiêng xác nó ra.”
“ Đừng.  Để thằng Billings nó làm.”
“ Ai?”
“ Billings.  Theo như lời của thằng phó thì nó có vẻ là xếp sòng.  Để nó khiêng xác thằng Lang ra nghĩa địa rồi đào mả chôn nó.  Cho nó lau sàn luôn.”
Mustang hít một hơi dài rồi nhìn mặt xem tôi có nói đùa không.


“ Tao chưa nói với mày,” nó nói.  “ Thằng Billings này có thể là người biết con bồ mày ở đâu.”


Tôi chợt khựng lại và cảm thấy lòng xốn xang.  Mới đến thành phố vài giờ nhưng tôi đã biết là Billings trông coi toàn thể khu lầu xanh của thành phố này.  Hắn còn là chủ hai quán rượu đắt khách nhất.
“ Có người thấy hắn nói chuyện và có vẻ để ý tới nàng, ” nó nói.  “  Ngay sau khi nàng xuống xe.”


Billings là một thằng bự con.  Tóc đen phủ kín một cái sọ tròn, và một khuôn mặt chè bè.  Chính giữa mặt là một bộ râu hải mã.  Nó cao gần thước chín và cân nặng tối thiểu một trăm kí.  Nó mặc chiếc áo sơ mi lụa sọc và quần màu đen.  Nó hút điếu xì-gà đen tổ mẹ và nhét súng trong bao đeo ngang thắt lưng để rút cho nhanh.


Quán rượu của nó nhỏ hơn và bẩn thỉu hơn các chỗ khác, nhưng khi chúng tôi đẩy cửa bước vào thì có khoảng mười hai bàn chơi bài đang chơi.  Tôi bước đến hỏi.  “ Billings?”
Nó quay lại nhìn tôi và mắt liếc cái huy hiệu.  “ Mày gặp thằng John Lang chưa?”
“ Rồi,” tôi nói nhỏ nhẹ.  “ Trước khi nó chết.”


Một sợi lông có rơi xuống cũng có thể nghe thấy được trong căn phòng đó.  
Billings lấy điếu xì-gà ra khỏi miệng.  “ Vậy à.  Vào văn phòng tao nói chuyện.”
“ Không có thì giờ.  Xác nó đang nằm trong văn phòng của tao, cần được chôn.  Và sàn nhà cần phải lau.”
Nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh dương.  “ Rồi sao?”
“ Rồi mày phải làm chứ sao nữa.”
Có tiếng một người chửi thề.  Từ trong góc mắt, tôi thấy một thằng buông bài xuống.  Tôi thấy môi nó nở một nụ cười, và tôi thấy khoé mắt nó cười cười.   
Nhưng mắt tôi vẫn không rời thằng Billings.


Nó vẫn nhìn tôi.  Tôi chưa bao giờ thấy một cặp mắt như vậy.  Rất hung ác, nhưng cẩn thận.  Đây là một thằng rất nguy hiểm.
“ Này chú em, chú em không hiểu.  John làm ăn cũng khá trong thành phố này.  Chú em cũng vậy.  Mình hợp tác làm ăn với nhau.”
“ Không cần đến mày,” tôi nói.  “ Tao là người chỉ huy ở đây, và tao sẽ cai quản một cách lương thiện.”
Nó nhìn điếu xì-gà, suy nghĩ lung.
“ Hội Đồng Thành Phố không chấp nhận đâu,” nó nói.  “ Tôi chắc chắn như vậy.”
“ Có phản đối cũng trễ rồi.  A lê hấp, bắt đầu ngay bây giờ.”
Nó nổi cơn lôi đình.
“ Giỡn mặt hả.  Tao thì---”


Đúng lúc đó tôi đánh nó.  Cú thọi đầu làm nó im miệng, và trước khi nó có thể lấy lại thăng bằng thì tôi lọi cho nó một củ nữa.  Cái này thì nó không ngờ.  Dân bắn súng ít khi nào phải dùng đến tay, và nó là một thằng đồ sộ, hơn tôi ít ra là phải hai chục kí.
Cú đấm thứ hai làm nó té ngửa ra quầy rượu, và tôi dùng gót giày bốt, đá vào đầu gối nó.
Nó té sụm xuống cái sàn nhà đầy mạt cưa của nó.  
Tôi đưa tay cho nó nắm và nó dùng hai tay chụp lấy, như tôi đã tiên liệu.  Và rồi tôi thoi vào hàm nó bằng một cú droit ngắn.
Thịt nó tét ra như ai dùng dao rạch mặt, và máu bắt đầu chảy ra.  Tôi bước lui cho nó đứng dậy.  Tay nó sắp sửa rút súng thì một giọng nói làm nó ngừng lại.  
“ Đừng, Ben.  Nó là Ryan Tyler.”
Có cái gì bên trong làm nó soải người ra và ngồi bệt xuống sàn.
“ Được rồi,” tôi nói, “ Mày có việc phải làm.”


Mustang rút sẵn hai khẩu súng ra và nhìn những thằng trong phòng, và cười cái cười bất cần đời, ngang ngược của nó.  Nó nói,   “ Tập cho quen đi mấy em.  Tao đã từng đi chăn bò khắp vùng Texas với nó. Đã từng chứng kiến cảnh nó hạ thằng Leet Bowers.  Tao đã thấy nó dũa thằng Ollie Burdette thảm thiết rồi tống cổ nó ra khỏi thành phố.  Thằng này nó nói là làm.”


Ben Billings từ từ đứng dậy.  “ Mình có thể nói chuyện được không?”
“ Không,” tôi nói, và ra dấu cho nó ra cửa.
“ Tao phải lấy áo khoác ngoài.”
“ Không cần.  Làm một hồi là nóng người ngay mà.”


Chúng tôi đi, và phân nửa đám đông đi theo.  Ben Billings đã từng là xếp sòng của thành phố này.  Nó đã từng tự tay quăng người ta ra khỏi quán rượu của nó.  Nó đã từng cho đàn em đánh đập và giết người.
Người ta nhìn nó khiêng xác thằng John Lang ra ngoài.
Người ta nhìn nó khiêng nước và lau sàn nhà văn phòng cảnh sát trưởng.  Và khi nó làm xong thì có khoảng ba bốn trăm người đứng chật con đường.
Cái này không chỉ để nó lau nhà mà còn để dân Alta thấy là Billings không ngon lành như chúng tưởng.  Để cho họ thấy là một thể chế mới đã bắt đầu.


Trong văn phòng có máng một cái áo khoác cũ với găng tay và mũ của John Lang.
“ Mặc mấy cái này vào,” tôi nói.  “ Để mà đào huyệt.”
“ Nhưng mà đất còn đông cứng” nó phản đối.  “ Cái này đào cả tuần cũng chưa chắc xong.”
“ Hy vọng là không lâu như vậy,” tôi nói, “ bởi vì đến lúc đó, chắc mày sẽ không còn đủ sức”


Nó bắt đầu đào mả.  Đó là một công việc vừa lạnh vừa tàn bạo.  Nó đào hai ngày hai đêm mới xong.  Đào xong mả thì cả phố ai cũng biết ai là cảnh sát trưởng mới của thành phố.   Còn tôi, tôi bắt đầu xuống phố kiểm soát mấy cái sòng bài.  Chúng tôi khám phá ra một cái bánh xe có thể điều khiển được trong một sòng bài của Billings, và khi Mustang mang cho tôi cái rìu thì tôi đập tan cái bàn trước mặt mọi người.  


Key Novak đang ngồi ở bàn của nó, chờ đợi chúng tôi.  Nó nhìn tôi bằng cặp mắt lạnh như băng giá của nó.  Có điều cái nhìn bây giờ có khác.  
Tôi không còn là một thằng nhóc lạ nước lạ cái mà là một tay súng thiện nghệ, có khi còn rút nhanh hơn nó.
Nó nhìn tôi chờ đợi.  Nó ghét tôi ra mặt.
“ Mày có ngựa không?” tôi hỏi.
“ Có.”
“ Thế thì cút đi.  Kể từ giờ, mày không được chơi bài nữa.”
Nó nhìn tôi, mí mắt giựt giựt và khoé miệng trắng bệch.  Nó từng giết người, và nó muốn rút súng.
Nhưng John Lang đã thử, và đã chết.
“ Với mày thì khác.” tôi nói nhỏ, nhưng không có chút gì thương hại trong đó.  Vì đây là một thằng đã giết một người thợ mỏ xong rồi mà còn tính bắn một phát bồi khi người ta đã ngã gục.  
“ Tao sẽ tước súng mày, rồi bắt mày đào mồ chôn chính mày.”
Hắn nhìn tôi, khuôn mặt tái nhợt.  Và rồi bàn tay nó bắt đầu run và những giọt mồ hôi bắt đầu lóng lánh trên chân mày và môi trên.  Rồi nó run rẩy đứng lên và đi ra khỏi phòng.


Nhưng chúng tôi vẫn chưa nghe thấy tin tức gì về Liza.  Rồi một hôm, một người bỗng lảo đảo, chúi người vào tôi trong khi đang đi trên đường.   Nhưng hắn chỉ giả say, và tỉnh như sáo khi nói nhỏ với tôi.  “ Nghe nói anh đi tìm người con gái tên Liza Hetrick.  Lên cái chỗ của Billings trên khe núi mà tìm.”
Tôi nắm áo hắn.  “ Nàng ở ngoài đó hả?”
“ Cổ nhân đã nói,” hắn nói bằng giọng khàn khàn.  “ Đi thì sẽ thấy.”


Chương 13



Chỗ ở của Ben Billings nằm trong một khe núi, cách xa thành phố độ mười cây.  Lối đi lên là một con đường mòn quanh co cháy dọc theo sườn núi.  


Tôi khởi hành lúc nửa đêm khi bầu trời đầy sao rực rỡ.  Trời lạnh gần không độ và tuyết lóng lánh như hàng triệu tinh thể kim cương, kêu lạo rạo dưới chân.
 
Khi con Xám bắt đầu ấm người, tôi cho nó đi nhanh hơn.  Ngoài hai khẩu Smith & Wesson và súng trường, tôi còn mang theo một cây shotgun cưa nòng, loại Colt trái khế bắn bốn lần bốn viên.  Tôi đeo nó lủng lẳng dưới cái áo khoác ngoài dài tới đầu gối.  
Còn khẩu 44 ly thì tôi nhét vào dây thắt lưng để có thể rút ra mà không phải vén áo.


Khi tới cuối đường mòn thì tôi thấy đàng trước có tia sáng le lói.  Tôi chui vào lùm cây, và khi  dắt ngựa tới gần thì tôi có thể thấy được phần trên của cánh cửa sổ.  Một người đàn bà ngồi trên một chiếc ghế đu, xoay lưng lại phía tôi.  Tất cả trông có vẻ yên bình, thanh vắng.  Tôi xuống ngựa đi vòng ra trước.  Phía Bắc cũng có một cánh cửa sổ.


Tôi đi vào chuồng ngựa quan sát.  Có hai con ngựa, mà rờ mình ngựa thì không thấy mồ hôi.  Và bên trong chuồng ngựa không có dấu tuyết.  
Từ cửa sổ tôi có thể thấy được một cánh cửa, có thể dẫn xuống bếp.  
Tôi không gõ cửa, mở cửa bước vào.  Tôi cúi người nhẩy vào trong, và xoay về hướng góc nhà không thấy được từ bên ngoài.  Góc nhà được che phủ bằng một tấm chăn đỏ.  
Đứa con gái đứng dậy đi giật lùi, nét mặt tái xanh.  
Không phải là Liza.


“ Đóng cửa lại.”  tôi nói.
Đứa con gái từ từ ra đóng cửa.
“ Có biết người nào tên là Liza Hetrick không?”
“ Không---không, tôi chưa bao giờ nghe đến tên đó.”
“ Ai là chủ căn nhà này?”
“ Tôi mướn của ông Billings.”
Mắt tôi không hề rời bức màn và nàng càng lúc càng có vẻ lo lắng.
Tôi đứng sau một cái bếp làm bằng sắt, cao tới ngực và to hơn người tôi.  


“ Này, người đứng sau tấm màn cửa,” tôi nói.  “ Bước ra.”
Không thấy nhúc nhích, không nghe một tiếng động.
“ Làm gì có ai sau đó.”  Đứa con gái ré lên.  
“ Được rồi,” tôi nói to, “ Thế thì tôi sẽ lấy shotgun bắn vào đó.”
Đứa con gái la to, “ Hắn không có shotgun.  Nói láo đó.”
Và cửa nhà bếp bỗng mở tung và một người bước vào.  Hắn nổ súng.  Viên đạn trúng bếp lò bằng sắt, vang như tiếng chuông.  Tay phải tôi đã để sẵn trong áo khoác. Tôi bước sang một bên và bắn hai phát.  Rồi tôi quay lại bắn người đứng trong bếp.


Ba phát súng trong nháy mắt.  Hai người ngã gục.


Người trong bếp trúng đạn vào bụng.  Người đứng sau tấm chăn té xấp người xuống, kéo tấm chăn theo.  Một viên vào mặt còn viên kia vào ngực.


Căn phòng sực mùi thuốc súng và yên lặng ngoại trừ tiếng khóc của người con gái.  Tôi nhìn hai cái xác, một cái của thằng phụ tá cảnh sát trưởng mà tôi đã đuổi ra khỏi thành phố.  Cái xác kia là của một thằng hay thấy lởn vởn ở quán rượu.
“ Đi về phố.” tôi nói.
Đứa con gái nhặt chiếc áo khoác và khăn len choàng cổ.  
Nàng cưỡi ngựa về phố với tôi và tôi mang nàng ra bến xe.   Tôi đứng chờ cho đến khi chiếc xe ngựa đi đã xa.  Tối hôm đó chúng tôi đi khám xét từng nhà nhưng chẳng thấy gì.  


Hai tuần lễ trôi qua trong êm thắm.  Chúng tôi bắt vài đứa tội đâm chém và Mustang bắt tại trận một thằng  ăn cướp.  Sau đó tất cả bắt đầu ổn định.  Người ta bắt đầu dám đi ra đường mua bán.  


Chúng tôi tiếp tục điều tra tik̀m tông tích của Liza.  Sau khi ông cảnh sát trưởng bị bắn chết thì  lúc đó người ta mới nhắn tin và gởi thư mời John Lang về nhận chức thay thế.   Có một lá thư trong tủ sắt, ký tên “ T.J. Farris.”  Trong phố chẳng có ai có tên đó.
Người đó là ai thì không biết, nhưng có điều chắc chắn là John Lang phải biết hắn rất rõ nên mới đi từ tuốt Texas về đây để nhận việc.


Chúng tôi tiếp tục theo dõi Ben Billings nhưng hắn rất thận trọng, không đi đâu hết.  Nó cũng đang lo lắng.  Nó biết là tôi biết về âm mưu ám sát, nhưng không thấy chúng tôi nói gì nên cũng hơi chột dạ.  Còn Mustang thì tối ngày vác ngựa chạy rông, chỉ khi tới phiên trực thì mới trở về.  Chúng tôi mướn thêm hai tay phụ tá để làm ca ngày.  Họ là những người dân địa phương, một cựu chiến binh phong trần dầy dạn tên là Riley và một thợ mỏ, yếu phổi, tên là Schaumberg.


Một buổi tối, khi tôi đang đứng một mình nơi góc đường và đang chuẩn bị đi thì bỗng có tiếng người trong bóng tối, nói nhỏ với tôi.
“ Đừng quay lại.  Người ta mà biết tôi là ai thì tính mạng tôi sẽ không còn.  Tôi khuyên anh nên nhìn lại quá khứ của thằng Lang.”
“ Cám ơn.”
“ Không có chi.”  Người trong bóng tối cười nhẹ.  “ Được xem thằng Billings lau nhà là quá đủ rồi.”
Tôi đứng yên cho đến khi tiếng chân bước đi xa dần.
 
Chúng tôi gửi thư đến những nơi Lang từng đã đi qua như Denver và Cheyenne.  Hắn đã từng ở tại Cimarron và Tascosa.  Thời còn ở Cimarron, hắn có giao du với một thằng đánh bạc tên là Ben Blake.
Ben Blake---Ben Billings.  Nghe tả cũng có vẻ giống.  Nhưng ngoài đó ra thì không có bằng chứng nào khác.  Chẳng ai biết gì thêm.


Một hôm, chúng tôi đang ngồi trong văn phòng tán gẫu.  Mustang nằm dài trên ghế nhưng có vẻ suy nghĩ đăm chiêu.
“ Hồi đó mày cho em Liza con ngựa Ô của mày phải không?”
“ Ừ.  Tại nó thích.”
Mustang vấn một điếu thuốc rê rồi nói, “ Tao biết mày thương con nhỏ đó.  Nhưng ngược lại,  tao nghĩ chắc nó cũng phải thương mày.  Mấy bà trong phố, ai cũng nói mày đẹp trai.  Thế thì nó có gì để mà nhớ tới mày không?”
“ Chẳng có gì.”
“ Ngoại trừ con Ô.”
“ Chắc chết rồi.  Mà không thì cũng bị chúng lấy trộm rồi, nhớ không?”
Mustang hít một hơi thuốc lá dài, rồi nét mặt đổi sang một vẻ câng câng tự đắc.
“ Hôm nay tao thấy con Ô.” nó nói.


Chương 14



Sáng hôm sau chúng tôi cưỡi ngựa ra đi.  
Nếu Mustang nói đúng thì Liza phải giữ kỹ con Ô lắm.  Bởi thế nên mới không bị lấy cắp.
“ Cái nữa là,” Mustang nói, “ Không biết tên T.J. Farris này là ai, nhưng  có vẻ nó biết mày.  Biết cả những cái mà tao còn không biết về mày.”
“ Cái gì?”
“ Rồi sẽ biết.  Hắn điều tra quá khứ mày để tìm ra nhược điểm.”


Đấy là một trang trại nho nhỏ dễ thương, không xa thành phố nhưng nằm khuất trong một góc.  
Một trang trại với bãi nuôi ngựa quây bởi những cọc gỗ và hàng rào bắt chéo cùng bãi cỏ chăn gia súc phì nhiêu.  Cỏ khô được chất thành đống và dàn dâu tây được cắt tỉa cẩn thận.
Chúng tôi cho ngựa đi chậm lại.  Mustang đã quan sát địa thế từ trước và đã nói chuyện với người chủ.  
Nhưng vẫn có thể là bẫy.


Đúng như lời Mustang nói, con Ô có ở đó.  Một con ngựa già với bộ lông mùa đông.  Tôi thấy có cái gì vương vướng trong cổ họng.  Con Ô mười bốn tuổi rồi chứ ít ỏi gì.


Tôi xuống ngựa và chạy lại hàng rào.
“ Ô,” tôi gọi nó.  “ Lại đây cưng.”
Nó ngẩng đầu, vểnh tai lên.  Nó đi lại hàng rào, rồi đứng lại, nhìn tôi.
Rồi nước mắt tôi bỗng ứa ra, dù có thằng Roberts ở đó, dù có thể có những họng súng đang nhắm vào tôi.
Vì đây là con Ô, con ngựa đã vượt đồng bằng với cha con tôi, con ngựa mà Bố cưỡi, con ngựa mà tôi đã nằm phủ phục lên sau khi Bố bị giết.  Con ngựa đã mang tôi đến trang trại nơi tôi đã gặp Liza.
Mà nó nhận ra tôi mới hay chớ.  Ai nói ngựa không biết nhớ.  Rõ ràng là nó nhớ.  Nó chạy tới và tôi nhẩy qua hàng rào và ôm chầm lấy cổ nó.  Và nó rúc mũi vào người tôi.
“ Liza đâu rồi hả Ô? Liza đâu?”
Nếu nó biết nói thì cũng đã nói tôi nghe.


Một người đàn ông cao ráo, tóc bạc đi về hướng chúng tôi.  Trông xa xa thì hơi hao hao Hetrick nhưng khi tới gần thì không giống.
“ Nó còn nhớ hả?”
“ Nhớ chứ.  Bao nhiêu năm tháng đồng cam cộng khổ với nhau mà. “
“ Có nghe nói.”
“ Ai nói? Liza hả? Liza đâu rồi?”
Ông bập bập ống tẩu.  “ Một hôm có người đàn ông đi với một cô gái, mang con ngựa lại.  Ông đó nói chăm sóc con ngựa vì rồi có ngày có người sẽ đến lấy lại.”
“ Có nói là ai không?”
“ Có chớ.  Nói tên anh rõ ràng.  Ổng nói, rồi Rye Tyler sẽ đến lấy lại ngựa.  Bằng không tôi phải nuôi nó ở đây cho đến khi chết.”


Lạ nhỉ.  Ai mà lại lưu tâm đến con ngựa của tôi như vậy?  Trừ phi---có thể hắn làm để chiều lòng Liza.  Có thể hắn yêu nàng, và biết đâu nàng cũng yêu hắn.  Chứ không thì ai thèm để ý đến một con ngựa già?
Có thể giờ này nàng đã yên bề gia thất.  Và tôi đã phí thì giờ của mình và của Mustang một cách vô ích.


“ Ông đó, mặt mũi như thế nào?”
“ Ít nói.  Chăn bò.  Nói ông xếp muốn giữ ngựa ở đây.”
“ Xếp?”
“ Ừa.”
“ Cái thằng chăn bò.  Từ đâu đến? Tên gì?”
“ Không nói.  Chưa thấy bao giờ.  Hăn cho tôi một trăm đô để chăm sóc con ngựa.  Tôi vốn yêu ngựa, và hắn biết điều đó.  Mà ai thì chẳng thích con Ô.”


Hai tháng sau.  Chúng tôi chẳng có thêm tin tức gì khác.  Thành phố nói chung cũng yên ổn.  Thỉnh thoảng phải mang mấy ông say vào khám cho đến khi tỉnh rượu thì cho đi.  Rồi có lần có thằng hết chuyện làm, nhè đúng quán rượu của Billings mà cướp.


Tôi đang ở văn phòng thì nghe tiếng súng.  Tôi vừa bước ra cửa sau thì thấy cánh cửa bung ra và một tên phóng ra, một tay cầm bọc tiền, tay kia cầm súng.  Nó đang chạy ra thì tôi hô lớn, nói nó ngừng lại.  Nó đang chạy bỗng đứng lại đưa súng lên.


Viên đạn của tôi ghim trúng người nó trước khi nó kịp bắn.  Viên đạn của nó bay véo sát qua đầu tôi.
Khi tôi đến gần thì thấy là viên đạn của tôi đã xuyên qua hai lá phổi và nó đang thổi bong bóng máu.  Đó là thằng Ollie Burdette.  Một Ollie Burdette già hơn, tóc bạc hơn, mặc dù tôi mới tống cổ nó ra khỏi Ngã Ba Mason không tới vài tháng.
Thế nhưng trong ánh mắt sắp chết của nó hiện ra một tia nhìn chiến thắng.


“ Tao đã thấy con bé.”  Tôi chỉ nghe câu được câu không.
“ Mày mất nó rồi. “
“ Cái gì?” tôi nắm cổ áo nó lắc lắc.  “ Mày thấy ai?”
Nó sắp chết tới nơi rồi, nhưng cố mỉm cười.  “ Tao thấy---Liza.”  Nó nói bằng tiếng ọc ọc từ trong lá phổi đang xuất huyết.  “ Một người ngon lành hơn mày nhiều.”
Và rồi nó nhắm mắt chết.
Ben Billings hốt đống tiền rớt vung vãi dưới đất lên.  Hắn nhìn Burdette, rồi tò mò nhìn tôi.  
“ Anh biết nó à?”
“ Ollie Burdette, “ tôi nói.  “ đến từ Ngã Ba.”
Billings nhìn người chết bằng một ánh mắt lạ lùng, khó hiểu.  
“ Cuộc đời kể cũng lắm chuyện lạ.  Số nó chết bởi súng đạn của anh.”


Người thứ tám bị giết dưới tay tôi.  Trong khi tôi chẳng muốn giết ai.
Có những buổi sáng tôi không muốn đeo súng và ước gì mình có thể đến một nơi không có súng, không có chém giết.
Nhưng không đeo súng thì không sống nổi quá một giờ đồng hồ.  Đó là thời loạn lạc và tàn bạo, thời của những người độc lập, không thích dưới quyền của ai và trả lời bằng khẩu Colt.  Chúng tôi là thế hệ tiên phong, khai phá đất đai mới, xứ sở của ngựa rừng.
Nhờ khẩu súng của tôi mà đàn bà có thể đi ngoài phố, trẻ con có thể đi học, và người ta đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.  Tôi đeo súng và lũ cướp của giết người phải núp trong bóng tối, chờ dịp tôi bất cẩn.


Tôi nghĩ về Liza.  Một người ngon lành hơn.  Ngon lành ở mặt nào?  Hạng người quen biết với thằng Billings thì ngon lành cái gì?


Tôi kể cho Mustang nghe lời thằng Burdette nói trước khi chết.   Rồi chúng tôi nói chuyện về những tay súng nổi tiếng.  Về Hickock, Allison, Ben Thompson, và King Fisher.  


“ Mày có bao giờ gặp Ash Milo, tay súng vùng Mogollon chưa?”
“ Chưa.”
Mustang vấn thuốc.  “ Thằng này dữ lắm.  Một tay súng thiện nghệ.  Tao cũng chỉ  nghe nói mà chưa gặp.”  Nó ngả người vào ghế.  “ Nó giết sáu thằng năm ngoái.  Hai thằng thuộc loại có hạng, nó truy lùng.  Ta nói nó cố tình đi kiếm cho bằng được.  Trước đây nó liều lĩnh, không sợ chết.  Năm rồi ít nghe thấy nó nữa.  Có thể nó gặp ai cũng không chừng.”
“ Tao không biết gì về nó.  Sống ngoài vòng pháp luật hả?”
“ Ừ.  Chặn cướp xe lương ở Nevada.  Rồi xe lửa.  Giết cảnh sát trưởng ở Greener.”
“ Hy vọng nó không về miệt mình,” tôi nói.  “ Tao không muốn giết ai nữa.”


Dân phố có vẻ thích tôi.  Tôi lúc nào cũng giữ văn phòng sạch sẽ ngăn nắp, nhưng lúc sau này cũng bắt đẩu để ý đến ăn mặc bên ngoài.  Tôi không mặc đồ cao bồi nữa.  Thay vào đó, tôi bắt đầu mặc quần áo may ở tiệm.
Một hôm thằng Mustang vào văn phòng vừa lúc tôi đứng dậy.  
“ Thằng Ash Milo mới giết một đứa nữa.  Một thằng du đãng tên Ruskin.”  nó nói.
“ Có nghe tiếng nó.”
“ Một thằng vô cùng háo sắc.  Thấy gái đẹp là tấp tới liền,”
“ Bắn ở đâu vậy?” Tôi hỏi cho có chuyện chứ thực ra chẳng cần biết.
“ Ở sào huyệt lũ ăn cướp.  Trên vùng cao nguyên.  Chỗ tên là Tổ Cướp.”
Dĩ nhiên, tôi biết chỗ đó quá mà.  Đó là một vùng rộng vài trăm cây số vuông và là nơi trú ẩn của tụi cướp của giết người.  Chẳng ai dám đuổi theo vào đó.
“ Thằng Ash Milo là thủ lãnh ở đó.”
“ Vậy hả?”
“ Mày không biết nó à?”
“ Không.”
“ Lạ nhỉ.  Vậy mà nó biết mày mới hay chớ.”


Chương 15



Tôi yên lặng một hồi lâu.  “ Chắc nó lại nghe người ta đồn đãi về tao chứ gì?”
“ Không.  Nó biết mày.”
Tôi lục lọi ký ức nhưng chẳng nhớ thằng nào tên là Ash Milo cả.  Dĩ nhiên thiếu gì người mình từng gặp mà không biết tên.  
“ Sao mày biết?”
“ Nghe nói nó cấm không cho thằng nào được bén mảng tới đây.  Nói là không thằng nào được đụng tới mày.”
“ Tốt.  Khỏi mất công.”
“ Rye à, tao có linh cảm là đây là đầu giây mối nhợ của tất cả.  Giữa Billings, Liza, và con Ô.”
“ Tao chẳng thấy có một liên hệ nào cả.”


Cũng có thể.  Thằng Ollie Burdette đã biệt vô âm tín trong nhiều tháng trời.   Rất có thể nó đã ẩn náu trong khu Ổ Cướp và đã thấy Liza nơi đó.  Thằng mà Burdette nói là ngon lành hơn tôi có phải là thằng Ash Milo này không?


Tôi lục lọi lại hồ sơ trong văn phòng.  Vụ đánh cướp ở Nevada có vẻ đã được chuẩn bị và thi hành một cách cẩn thận.  Vụ thanh toán ông cảnh sát trưởng thì lại khác.  Ông ta bị bắn nát người. Đó là hành động của một kẻ giết người không gớm tay.  Tôi mường tượng đến một người thông minh sáng suốt, nguy hiểm như một con rắn, giết trước rồi hỏi sau.  


Ngày hôm sau tôi đi thăm con Ô.  Nó chạy đến hàng rào để gặp tôi.  Tôi cho nó cục đường, bóp bóp người nó, rồi lùa tay vào bờm nó---Và rồi ngừng lại.
Tôi rờ thấy một mẩu giấy gấp nhỏ.  Khi mở ra thì nhận ra tuồng chữ của Liza ngay lập tức.  
Tim tôi đập mạnh như muốn nhẩy ra ngoài lồng ngực.  


Rye yêu dấu:
Đừng tìm em nữa.  Chỉ mang lấy khổ đau vào thân thôi.  Lại còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.  
Em không việc gì hết, và rất mừng là anh còn sống.  Nếu còn yêu em thì đừng đến đây.
Li.


Tôi cắm đầu cắm cổ chạy vào nhà.  Ông già vừa rửa chén xong và đang lau khô tay.
“ Biết là thế nào cậu cũng trở lại,” ông nói.  “ Cô bé có đến đây.”
“ Hồi nào?”
“ Cách đây hay ngày.  Cô ấy đi với một đám lâu la.  Chúng đi kèm theo sát nút.  Cô ấy hỏi cậu có đến không.”
“ Trông nàng như thế nào?”
“ Rất xinh xắn.  Nhưng có vẻ lo lắng.”
“ Họ đi về hướng nào?”
“ Họ đến lúc xế chiều.  Khi họ đi thì trời đã tối hù, và hình như họ đi về hướng Nam.”


Khi tôi về đến phố thì Mustang đang ngồi dựa lưng vào tường.  Tôi thuật lại tự sự và đưa nó con mẩu giấy.  Nó chau mày đọc, rồi ngẩng lên nói.  “ Cái anh chàng Denison ở Denver đang ở trong khách sạn chờ mày. “
“ Hắn có nói gì không?”
“ Không.  Hắn hỏi về mày, về Burdette, và về trận đấu súng ở Billings.”


Khách sạn là một căn nhà hai tầng làm bằng gỗ, cất lên sơ sài vội vã để phục vụ đám đông đổ về khi thành phố đang phát triển.  
Denison Mead ngồi một mình cạnh lò sưởi khi tôi bước vào khách sảnh.  Căn phòng trống trơn không có người.  Mead đứng dậy bắt tay và mời tôi ngồi xuống ghế đối diện.


“ Tyler, khi tôi gặp anh ở Denver tôi thấy anh giống một người tôi quen.  Khi nói chuyện xong thì tôi biết anh là ai.”
“ Tôi không hiểu.”
“ Như trước đây có nói, tôi là một luật sư chuyên lo về bất động sản hầm mỏ.  Văn phòng của tôi cũng đại diện cho dòng họ Blair.  Có thể nói họ là một trong những thân chủ lâu đời nhất của chúng tôi.  Anh còn giữ di vật nào của mẹ anh không?”
“ Chỉ còn một tấm hình.  Còn tất cả đều bị thiêu hủy sau vụ tấn công của mọi da đỏ.”
“ Một tấm hình? Anh có ở đây không?”
Sau khi sống ở thành phố thì tôi giữ tấm hình trong túi thay vì nhét trong bịch yên ngựa.  Tôi lấy tấm hình đưa cho hắn coi.  Hắn mỉm cười.  “ Đúng rồi.  Virginia Blair.  Nhìn mặt là nhận ra ngay.”
“ Blair?”
“ Đó là nhũ danh của mẹ anh.  Gia đình cũng khá giả.  Không giầu sụ, nhưng cũng có tiền.  Và có địa vị.”


Hắn nói mẹ tôi có thừa hưởng một số tiền và một nông trại khá lớn ở Maryland và Virginia.  Hơn một ngàn mẫu đất.  
“ Một căn nhà khang trang và vài chuồng nuôi ngựa.” Hắn ngồi dựa lưng vào thành ghế và châm lửa đốt điếu xì gà.  “ Tất cả đều thuộc về anh.  Gia đình hối hận đã ruồng bỏ bố mẹ anh nhưng đã muộn.  Chúng tôi đã cố tìm mà không được.  
“ Giờ nếu anh nghe lời tôi thì bỏ hết về miền Đông.  Anh sẽ sống thoải mái nơi đó.”
Tôi chưa hề nghĩ đến điều này và cần phải có một thời gian để suy nghĩ.  Ở miền Đông tôi sẽ không phải mang súng.  Và chẳng ai biết tới cái hỗn danh của tay súng Ryan Tyler.
Và rồi tôi nghĩ đến Liza.
Và tôi đã có chủ ý của riêng mình.


Tôi đứng dậy.  “ Ông Mead.  Tôi sẽ nghe lời ông.  Tôi sẽ về miền Đông mà lập nghiệp.Ông cứ đi trước chuẩn bị sẵn sàng.  Tôi còn một việc phải làm.”
Hắn cũng đứng dậy.  “ Tyler,” hắn nói,  “cẩn thận.  Tôi đã biết hết.  Thành phố tuy có vẻ ổn định nhưng thật ra chỉ trên bề mặt thôi.  Có rất nhiều người sợ và ghét anh.  Chỉ cần một sơ sẩy thôi là chúng sẽ nhào đến như một bầy chó sói.”
“ Vâng.  Ông cứ lo giấy tờ cho xong đi.  Tôi sẽ trở lại.”


Mustang đang đi đi lại lại trong phòng khi tôi đi vào.  “ Có tin rồi.  Đám lâu la đi cùng Liza đã trở về hướng Nam theo một con đường mòn về một hướng duy nhất.”
“ Chỗ nào?” tôi hỏi là hỏi vậy nhưng đã biết sẵn câu trả lời.  
" Chúng đi về hướng Ổ Cướp.”


Ổ Cướp.  Ở đó có bao nhiêu đứa? Có người nói năm chục, nhưng có người nói cả ngàn.  Đó là nơi nương náu của đám lục lâm thảo khấu dọc theo Đường Mòn Ngoài Vòng Pháp Luật, trải từ Gia Nã Đại tới Mễ Tây Cơ, ngang qua dãy Nham Thạch San.  Và ở nơi đó, Ash Milo làm vua.  Dưới trướng của Milo còn bao nhiêu những tên tuổi nói ra là người dân miền Tây nào cũng đều rúng động: Sandoval, Bronco Leslie, Chance Vader, và Smoky Hill Srevens.  Đầu đứa nào cũng treo giải thưởng ở hàng chục tiểu bang, đứa nào cũng là một tay súng cừ khôi.  


“ Thằng Milo này,” Mustang nói.  “ Nó biết nhiều về mày.”
“ Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa.  Hơi sức đâu mà để ý.”
“ Phải rồi, nhưng có một tin đồn mà trước giờ tao chưa nghe nói đến bao giờ.”
“ Tin nào?”
Mustang đội mũ lên đầu và gác chân trên bàn.
“ Điều tao chưa nghe nói đến bao giờ,” nó chậm rãi vấn thuốc.  “ Là mày đã từng giết một thằng tên McGarry.”





Chương 16



Khi Mustang đi ngủ là lúc mà tôi bắt đầu thắng yên ngựa và chuẩn bị súng ống mang theo.  Tôi để ngôi sao cảnh sát lại trên mặt bàn.  Nơi tôi sẽ đi đến, mang phù hiệu trên ngực chẳng khác nào đeo bảng mời người ta bắn mình.   Mấy ngày nay tôi không cạo mặt, để râu ria mọc lởm chởm.  Trời vừa tờ mờ sáng là tôi đi theo con đường mòn đi về vùng đất hoang dã không người tới, trừ mọi da đỏ và những kẻ sống ngoài vòng pháp luật.  


Tôi dừng chân cắm trại nghỉ ngơi hai lần, rồi lại tiếp tục lên đường.  Sau khi đã đi sâu vào khe núi, tôi bắt đầu đi chậm và để ý cẩn thận hơn.  Sau ba ngày không cạo râu và quần áo bám đầy bụi bặm, tôi bắt đầu trông giống một kẻ tội đồ trên đường đào tẩu.
  
Tôi tiến vào vùng Thung Lũng Chín Dặm rộng mênh mông và không một bóng người.  Tôi dừng chân tại một con suối cho con Xám uống nước.  Tôi nằm xuống bãi cỏ dưới bóng một dặng liễuvà lấy mũ che mặt để chợp mắt một lúc.  
Không biết ngủ được bao lâu nhưng tôi chợt tỉnh ngủ khi con Xám ngẩng đầu và  vểnh tai lên nghe ngóng.  Tôi chồm dậy, dùng tay bụm mũi và ôm cổ nó.  Nó như hiểu ý, đứng yên.
Một hồi sau tôi nghe được tiếng người nói chuyện.  Từ sau dặng dương liễu, tôi thấy bóng dáng của hai người.


Một người mặc áo gi lê màu đen bên ngoài chiếc áo sơ mi đỏ thẫm, người kia có mái tóc vàng hung và mặt đầy tàn nhang.  Tôi nghe hắn gọi người kia là “ Bronc."  Đây chắc là Leslie, hung thần quận Malheur.
Tôi dắt ngựa từ từ tiến tới họ.  Nếu tôi đi vào vùng Ổ Cướp chung với Bronco Leslie thì có lẽ ít người để ý hơn.
Bronco Leslie có một cái sẹo trên mí mắt và một khuôn mặt xương sẩu.
“ Mày đi đâu vậy?” nó hỏi bằng một giọng không được thân thiện cho lắm.  
“ Tìm đường về Ổ.  Tụi mày chắc cũng về đó chứ gì?”
“ Ai nói mày biết?”
Không khí có vẻ căng thẳng và chỉ cần một lời không phải là có chuyện ngay.  
Tôi toét miệng cười.  “ Còn đi đâu nữa bây giờ ở cái vùng chó ăn đá gà ăn sỏi này?”
Bronco nhìn tôi và con Xám từ đầu xuống chân.  “ Tao có biết mày là ai không?”
“ Chắc là không, “ tôi nói.  “ Tao sống ở  Leadville.  Có vấn đề nên phải bỏ xứ mà đi.”


Vài hôm trước có ba thằng vượt ngục ở Leadville và không ai biết mặt mũi chúng như thế nào.
Leslie tiiếp tục nhìn tôi.  Rõ ràng là nó không thích tôi nhưng nó là đứa cẩn thận nên quyết định chưa phải là lúc vọng động.  
Thằng áo đỏ tự giới thiệu.  “ Tên tao là Red Irons,” nó nói.  “ Còn đây là Bronco Leslie.”
“ Tao là Choc Ryan,” tôi tự giới thiệu, “ Từ vùng Xứ Mọi  đến.”


Rồi chúng tôi tiếp tục đi trong yên lặng.  Khi chúng tôi đến chỗ quẹo thì bóng chiều đã xế và những dốc núi đổi thành một màu đỏ vàng.  


“ Có biết một thằng tên Ruskin không?” tôi hỏi.
Bronc quay lại nhìn tôi.  Đây là một câu thăm dò.  Theo lời đồn thì Ash Milo không thích thằng này.
“ Bạn mày hả?”
“ Không---Hồi đó có đụng độ sơ sơ.  Hỏi cho biết.  Nếu có thì tao né nó ra.”
Leslie nở một nụ cười khinh bỉ.  “ Khỏi có lo.  Nó chết rồi.  Dám léng phéng với bồ của Ash Milo nên Milo hạ nó rồi.”
“ Thằng Ruskin ngon lành lắm mà.”
“ Ngon cái gì mà ngon,” Leslie nhổ nước miếng.  “ Ngon cỡ nào cũng không đụng tới lông chân của ông xếp được.  Chưa thấy ai rút nhanh hơn ổng.”


Trong một tiếng đồng hồ trên mình ngựa sau đó, tôi nghe bao nhiêu chuyện kể về Ash Milo.
“ Tao thì thấy ổng hơi nóng giận bất tử,” Thằng Red nói. “ Đến gần chả phải cẩn thận.  Thế nào cũng có ngày ổng bắn lầm người.”
Nghe câu nói hơi quen quen.  Hồi đó Logan Pollard cũng hay nói vậy.
“ Con rút nhanh đấy,” ông từng nói.  “ Chưa thấy ai nhanh hơn con.  Nhưng cẩn thận.  Thế nào cũng có ngày bắn nhầm người.”


Bức tường cao màu đen của khe núi nẻ ra một khe hở cao ngất trời, và gió thổi lọt qua như một giòng nước.  Sau khi chúng tôi đã đi được khoảng một trăm bước thì Leslie kéo ngựa chạy lên phía trước.


“ Ba người bạn,” nó nói to.
“ Ai?” Giọng nói như phát ra từ trong hang.
“ Leslie đây Jim ơi.  Có thằng Red và một người bạn mới, tên là Choc Ryan.”
“ Tới luôn.” Một phút sau giọng người đó nói tiếp. “ Nếu người mới không phải là bạn thì sẽ không bao giờ sống sót trở về.”


Sau khoảng một phầrn tư dặm đường thì chúng tôi xuống dốc và con đường mở rộng ra một vùng đất bằng phẳng, và có thể thấy được ánh sáng le lói phát ra từ vài căn chòi.  


“ Và đây là cái Ổ, ”  Red nói.  “ Coi thì không có gì là ghê gớm, nhưng đây là nhà và là nơi nương náu an toàn. “

Tôi bỗng cảm thấy người mệt mỏi rã rời.  Không biết chừng nào gặp Milo.  Hy vọng không phải là tối nay.  Chúng tôi cho ngựa vào chuồng rồi đi theo Leslie vào một tòa nhà dài, đèn đuốc sáng chưng.  Bên trong có ba người ngồi uống cà phê.  Họ ngẩng đầu nhìn tôi, không nói gì.  


“ Choc Ryan,” Leslie giới thiệu.  “ từ vùng đất Mọi.”


Rồi một người da đen từ bếp đi ra, tay cầm một đĩa thịt với khoai tây và đặt xuống bàn.  Tôi đã từng thấy mặt hắn trên một tấm bích chương ở Alta.  Hắn đã bóp cổ lính gác và thoát tù.
Trên bàn có một ấm cà phê và tôi rót cho Leslie, Red, và tôi.
Người đang uống cà phê liếc nhìn tôi.  “ Chà, lịch sự nhỉ?”
Tôi mỉm cười.  “ Chẳng phải là lịch sự gì đâu,” tôi nói.  “ Nhưng mấy cha này thuộc loại dữ dằn nên phải nịnh một tí.”
Mấy người đó có vẻ thoải mái hơn sau câu nói của tôi và bắt đầu cắm cúi ăn.
Đối diện tôi là một thằng to con, áo phanh ngực xuống tới rốn.
“ Tao đến từ xứ Mọi.” nó nói.  “ Mày ở miệt nào?”
“ Miền Cimarron,” tôi nói.  
Tôi đã từng chăn bò qua vùng đó và hồi đó thằng Leet Bowers có sàro huyệt ở Cimarron.  Chúng tôi nói này nói kia về vùng đất nơi Oklahoma đó, đủ để cho chúng thấy là tôi đã từng ở đó.


Chúng tôi ngủ trên bãi cỏ gần căn nhà tầng.  Ngày hôm sau tôi cho ngựa ăn bắp.  Ở đây họ thay phiên trồng bắp cho ngựa ăn vì ngựa ăn bắp chạy nhanh hơn ngựa ăn cỏ.  Chẳng cần ai bảo, tôi tự động vác cuốc ra đào đất trồng bắp.  Sau vài tiếng đồng hồ làm việc tôi trở lại và thấy họ có vẻ hài lòng hơn.  
Hơn nữa, cuốc đất cũng là rmột dịp tốt để tôi nhìn quanh quất mà không bị nghi ngờ.  
Tất cả có thẩy độ mười căn bin đinh.  Sau một căn, tôi thấy có quần áo đàn bà phơi trên dây.  Nhưng nhà bên cạnh có hai thằng thay phiên canh gác tối ngày sáng đêm.


Ngày thứ hai tôi gặp thằng Chance Vader.  Nó là một thằng mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.  Nó đeo hai súng bên ngoài và một khẩu dấu trong áo.  Nó hay ngồi chơi bài, và tôi để ý thấy nó hay liếc trộm về phía căn nhà tường đá màu xám, nơi Liza đang ở.
Có lần một thằng ở căn nhà kế bên tên là Smoky Hill, bước ra và tiến về phía thằng Chance.  Hai thằng có vẻ to tiếng và cuối cùng thì rthằng Chance đi trở ra.  
Thằng Red nói nhỏ.  “ Cái thằng Chance này tưởng là nó ngon lắm.  Thế nào cũng có ngày chết.”
Người ta đồn nó từng giết sáu người, bốn thằng thuộc loại thứ dữ.  Và nó không thích tôi.


Một hôm khi tôi đang trồng bắp thì nghe tiếng gọi.  “ Choc.  Lại đây bảo.”
Đó là thằng Smoky Hill.  Nó đang đứng trước căn nhà gác.  Tôi phủi tay sạch đất rồi đi tới mà trong bụng đánh lô tô.  
“ Này,” Smoky Hill nói.  “ Tao có chuyện phải đi một chút, mày canh chừng thay tao được không.  Đừng cho thằng khốn nạn Vader bén mảng tới đây, được không?”
“ Nếu nó lên đây thì sao?”
Nó nhìn tôi lạnh lùng.
“ Trừ Milo ra, không ai được nói chuyện với con bé đó. Kể cả mày luôn.  Nhưng tao biết mày đàng hoàng.  Tao đã để ý mày từ lâu. “
Thế là nó xuống đồi, để tôi ngồi đó mà tim đập thình thịch.


Bỗng nhiên tôi thấy nàng đứng cạnh cửa sổ.  Tôi dở nón ra, đặt xuống bậc cửa, hy vọng nàng sẽ để ý thấy.
Tôi cúi xuống nhặt lên một hòn sỏi.  Nàng đứng đó, đàng sau tấm màn cửa, và nàng đã nhận ra tôi.  Rồi nàng làm hiệu cho tôi đi đi.


Tôi làm bộ giết thời giờ bằng cách ném hòn sỏi vào một cái lon.  Khi tôi cúi xuống để nhặt thêm sỏi tôi lắc đầu và đưa hai ngón tay, ra dấu là cả hai đứa cùng đi.
Nàng lại ra dấu làm hiệu.  Và tôi nghe tiếng chân người bước tới.


Chance Vader đứng ngay đó, cười chế nhạo.  “ Thì ra mày cũng thích con nhỏ đó?”
Tôi đứng dậy và trong đôi mắt Vader hiện ra vẻ suy nghĩ.  “ Tao trông mày quen quen như có gặp ở đâu rồi.”
“ Mày phải đi ra khỏi chỗ này ngay lập tức.” tôi nói.
Nó quay lưng bắt đầu bỏ đi nhưng bất thình lình quay lại.
“ Tao nhớ rồi.” nói nói.  “ Denver.  Mày là Ryan Tyler.”
Smoky đang đi lên.  
“ Rye Tyler,” Vader nói.  “ từ Alta.”


Tôi phải giết nó ngay.  Không còn lựa chọn nào khác.  Tôi nhìn vào vẻ mặt đắc thắng độc ác của nó.  Bỗng tay nó động đậy.  Không biết có phải nó có thực muốn rút súng không, nhưng tôi liền rút súng và nó đã chậm hơn tôi chỉ một sát na.  


Viên đạn bắn trúng nó ngay bụng khi họng súng của nó vừa mới nhích lên.  Bước qua một bên để nó phải chỉa súng theo, tôi bắn một phát nữa, lần này nhắm kỹ hơn, viên đạn ghim ngay trên túi áo.  Thế mà nó vẫn chưa chết mới là lạ.
Môi nó nở một nụ cười.  Một viên đạn bay xẹt ngang tai và khẩu súng trong tay trái của tôi giật nẩy lên.  Đây là lần đầu tôi xử dụng hai súng, và tôi ngạc nhiên khi viên đạn bắn trúng, làm gẫy cùi chỏ nó.  Nhưng Smoky Hill đang chạy lên đồi và tôi không còn đủ thời gian nữa.  Tôi bước lại gần, hai khẩu súng thay phiên khạc đạn.


Trong cuộc đời tôi chưa bao giờ cần phải giết người cấp bách như vậy.  Phải giết.  Phải giết cho bằng được.  Phải giết bằng không tính mạng tôi sẽ chẳng còn.  Phải giết vì tương lai của Liza.


Smoky Hill níu tay tôi lại trong khi đang nạp đạn lại.  “ Đủ rồi Choc.  Nó chết rồi.”
“ Rye,” Vader cố thều thào một tiếng chót trước khi tắt thở.  “ Rye.”


“ Quái nhỉ,” Có tiếng người xầm xì.  “ Thằng này chết tới đít rồi mà vẫn đòi uống rượu.”


Chúng nó bu lại chung quanh, trố mắt nhìn tôi.  Một thằng đứng nhìn chín vết đạn trên người Vader nói, “ Tưởng là thằng Vader đã nhanh, thế mà---”
“ Nó nhanh thật,” Smoky Hill nói.  “ Nhưng thằng Choc còn nhanh hơn.” Nó chỉ vào xác chết.  
“ Và bắn chính xác hơn.  Một viên vào rốn, một viên vào mặt, và một viên cách quả tim không tới nửa phân.”
“ Tôi không bắn nhanh, bắn trúng thì nó đã giết tôi rồi.” Tôi nói.
Thằng Red Irons nhún vai.  “ Đừng có thắc mắc.  Thiếu gì thằng trong đây muốn hạ nó.  Chỉ có không dám thôi.”


Thế là chúng tôi đi xuống đồi, vào quán rượu.  Tôi hết còn là một kẻ đào tẩu lang bạt kỳ hồ.  Tôi là một tay súng nguy hiểm, đáng sợ.  
Khi tôi đặt ly rượu xuống và quay ra cửa thì Smoky Hill cũng vừa vào.  Ánh mắt nó trông khác lạ và tôi biết là đã có chuyện rồi.


“ Choc,” nó nói.  “ Ash Milo muốn gặp mày ngay bây giờ.”


Chương 17



Nếu Ash Milo quả có biết tôi như lời thằng Mustang Robert nói thì chắc không tránh khỏi sát sanh nữa rồi.  Và không biết Liza có còn muốn đi với tôi sau khi đã chứng kiến những cảnh giết người như vậy.


Tôi đứng vấn thuốc trước cửa quán rượu mà lòng thì rối bời và miệng mồm đắng nghét.
Đường lên đồi không tới hai trăm mét nhưng sao thấy nó dài lê thê đến thế.  Tôi cảm thấy hơi nóng mặt trời cháy bỏng trên lưng, ngửi được mùi cỏ, và nơi dãy đồi xa xa, một cụm mây trắng phủ bóng trên con giốc màu da cam.  


Liza là người ra mở cửa cho tôi vào.  Một Liza cao hơn, đẹp hơn, và khuôn mặt mang một vẻ buồn man mác.  
Rồi nàng bước tránh sang một bên và tôi nhìn thẳng vào mặt Ash Milo.


Nhưng tôi đã biết người này rồi---quá biết đi chứ.  Đây là một người mà tôi hằng ngưỡng mộ và kính trọng nhất trên trần đời.  Đây là người bạn lúc tôi không có một ai là bạn.  
Logan Pollard.


Ông trông gầy và già hơn.  Tóc ông đã điểm bạc và mặt ông có một vẻ căng thẳng chưa thấy bao giờ.  Dĩ vãng chợt kéo về ào ạt như một cơn lốc.  Tôi nhớ lại như ngày hôm qua ông che chở tôi khỏi trận đòn thù của thằng McGarry.  Tôi nhớ lần ông cứu mạng tôi trong trận đấu súng với lũ cướp ngựa.  Và tôi nhớ những lời khuyên nhủ, dậy dỗ của ông.  


Ông bước lại gần tôi, miệng nở nụ cười cố hữu, và đưa tay ra bắt.
“ Rye,” ông nói.  “ Rye.  Đúng là con rồi.  Lâu quá rồi nhỉ.”
Tôi không ngần ngừ nắm chặt tay ông, và ông nhìn vào mắt tôi và mỉm cười.


“ Rye, con đã nổi tiếng như cồn.  Ta rất mừng con vẫn theo con đường chính đạo.”
“ Thì ra chú là người đã không cho đàn em đến quấy nhiễu,” tôi nói.  “ Chú làm vậy để bảo vệ con phải không?.”


Ông cười, vẫn nụ cười mím môi đó.  Có khác chăng là giờ thêm vẻ chua chát.
“ Không.  Ta vẫn biết con quá mà.  Ta biết nếu có đụng độ thì phần thua thiệt sẽ về tay chúng ta.
“ Con biết không, Rye.” giọng ông nhẹ nhàng mềm mỏng.  “ Một đứa trẻ phải chiến đấu khi cha nó bị giết là chuyện tự nhiên.  Nhưng con thì khác.  Con đã đi lùng theo lũ da đỏ để giết.  Hơn nữa, ta đã chứng kiến cảnh con đối đầu với thằng McGarry mà không một chút sợ hãi.  Con là một con kẻ có nghị lực và khí thế.--”


Ông quay lại đi về phía bên kia phòng.  Liza nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu.  Và tôi bắt đầu suy nghĩ.
“ Chuyện gì đã xảy ra cho cô Mary?” tôi hỏi.
Ông xoay lưng lại, không nói gì một hồi lâu.  Rồi thì thầm,
“ Nàng đã chết khi sanh nở.  Nếu nàng còn sống thì chắc ta vẫn còn ở nơi đó.  
“ Con còn nhớ ông cảnh sát trưởng Balcher không? Ông ta cố giữ ta ở lại nhưng ta không thể sống tiếp với những kỷ niệm.  Và ta đã bỏ đi.”


Logan trở ra giữa phòng.
“ Ngồi xuống đi Rye.”
“ Chú Logan,” tôi nói.  “ Chắc chú biết lý do tại sao cháu đến đây chứ gì?”


Nụ cười chợt biến mất trong ánh mắt của ông.  Ông nhìn tôi chăm chú.  Và ngay lúc đó thì tôi nhận thức được là những điều người ta đã nói về tay súng Ash Milo là sự thực.  Đây là một người vô cùng nguy hiểm---và tâm lý không được bình thường.
Tôi đã từng nhìn vào đôi mắt của những kẻ nguy hiểm.  Nhưng trong đôi mắt ông còn có một cái gì hơn thế nữa.


“ Dĩ nhiên.  Con đến đây vì Liza.  Và điều này thì ta không thể khứng chịu.”


Và rồi cuối cùng cái gì phải đến cũng đã đến.  Lằn ranh đã được vạch ra.  Một lằn ranh mà cả hai chúng tôi sẽ không nhượng bộ.  


“ Chú ép buộc nàng ở lại đây.  Chú đâu phải là loại người như vậy.”


Ông nhún vai một cách bực bội.  “ Đừng có nói nhảm.  Rồi nàng sẽ đổi ý.  Ta chỉ cho nàng thời gian và cơ hội để đổi ý.”
“ Không một người con gái đàng hoàng nào muốn ở lại nơi chốn như thế này.”


Ông dạng chân đứng đối diện.  Trong chiếc quần sọc xám, áo trắng với cra-vát sợi màu đen, trông ông thật thanh lịch.  Nhưng khẩu súng thì đeo kè kè bên hông.


“ Rye, chú cần một người thân tín như con.  Ở lại đây, ta sẽ sống như những ông hoàng.”  Ông vung tay chỉ về hướng những ngọn đồi.  “ Ta sẽ thống trị toàn cõi này.”


Cõi này---một vương quốc của sỏi đá.  Người này đã từng là bạn tôi nhưng tình bạn đến đây là chấm dứt.  


“ Không.” tôi nói thẳng thừng.  “ Cháu sẽ rời khỏi nơi đây.  Và sẽ mang Liza theo.  Nếu nàng chịu.”


Rồi tôi kể ông nghe về mảnh đất ở Maryland của tôi.  Kể cho ông nhưng thật ra là cố tình cho Liza nghe.  
“ Chú Logan, cháu sẽ làm theo lời khuyên trước đây của chú.  Cháu sẽ buông súng trước khi giết lầm người.”
Ông vấn thuốc trong yên lặng, rồi ngẩng đầu nhìn tôi.  Đây là Logan, cũng là người mang tên T.J. Farris, người đã mướn John Lang.  Khó có thể tưởng tượng con người ta có thể thay đổi đến thế.  


“ Chú sẽ để cho cháu đi.  Nhưng Liza sẽ ở lại.”
“ Chú đã có Mary,” tôi nói nhẹ nhàng. “ Mary là người đã từng kề vai sát cánh với chú.  Liza cũng là người như vậy đối với cháu.  Chúng cháu quen như từ khi còn bé.”
“ Không,” ông nói như người không chịu tin.  “ Không.”
Tôi liếc nhìn Liza.  “ Em có đi theo anh không?”
“ Có.  Rye.  Em sẽ đi theo anh.”
“ Thấy không?”  Tôi quay lại nhìn ông.
 
Logan nhìn tôi mỉm cười.  Cái cười không chút tình cảm.  Miệng cười nhưng súng đã rút ra khỏi vỏ.
“ Rye, ta tưởng ta đã dậy mi cẩn thận lắm mà.  Không bao giờ được nhìn đi chỗ khác.”
“ Nhưng chú là bạn mà,” tôi nói.
“ Chẳng có bạn bè gì trong cuộc đời này.  Mi có thể đi,  Ta đã ra lệnh cho chúng để cho mi đi.”


Ông nhìn tôi qua đầu ruồi khẩu súng như ông đã nhìn McGarry.  Ông nhìn tôi qua lòng súng đen ngòm và tôi biết ông là rmột người nguy hiểm nhất miền Viễn Tây.  
Ông đã từng dậy tôi nhiều thứ.  Đừng bao giờ rút súng nếu không bắn, đừng bao giờ bắn, nếu không chết.  
Con người đứng đó với khẩu súng là một người rút ra là phải giết.  Con người Logan Pollard của ngày xưa đã không còn nữa.  Và tôi chợt hiểu.  Khi tôi quay mặt bước đi thì ông sẽ giết tôi.  Ông không thể để tôi sống vì biết tôi thế nào cũng sẽ trở lại với một đạo quân để dẹp tan tành Ổ Cướp.


“ Thôi được rồi,” tôi nói.  “ Cháu cứ tưởng chú cháu mình không khác ruột thịt.  Có một thời---”
“ Im đi.” Ông nổi nóng. “ Mi phải biết là mi vẫn còn may mắn.  Mi đã giúp ta diệt trừ thằng Chance Vader.  Giờ ta trả ơn mi bằng cách cho mi đi.”


Đôi mắt Liza mở tròn xoe vì sợ hãi.  Nàng muốn dặn tôi coi chừng.


Tôi quay đi.  Tôi cần một lá bài chót.  Tôi cần làm phản ứng ông chậm lại vài khắc.  Cần làm ông phải suy nghĩ.


Tôi quay lại.  “ Chú Logan,” tôi nói.  “ Cháu mới đọc Plutarch có bốn lần.”
“ Plutarch?”


Ông đã sẵn sàng để bắn, nhưng điều tôi nhắc đến làm ông khựng lại.
Ngay lúc đó tôi lăn qua một bên và rút súng.
Đó là một động tác mà tôi đã tập đi tập lại mỗi khi một mình cho đến khi thuần thục.  Nhào qua một bên, quì một gối, chân kia duỗi ra.  
Và tôi rút nhanh như chưa bao giờ rút nhanh như vậy.


Khẩu Smith & Wesson .44 giật nẩy trong lòng bàn tay tôi.
Trong giây phút tôi vừa bắn thì thấy mắt ông lộ tia hung quang và khẩu súng ông toé lửa.
Tôi bật người xuống sàn, nghe tiếng của một viên đạn nữa nổ toang trong bức tường đàng sau,
và tôi bắn hai phát.
Tôi thấy màu đỏ hiện ra trong ngực áo của ông, và ông té ngửa ra sau, viên đạn thứ ba của ông bắn lên trần nhà.  
Tôi lăn một vòng rồi đứng dậy.  Ông chỉa họng súng vào tôi và cả hai chúng tôi nổ súng cùng một lúc.  Tôi cảm thấy người tê dại vì viên đạn trúng vào người.  Và tôi bắn, rồi ông ngã sấp mặt xuống, khẩu súng văng qua một bên.
Tôi nhìn ông, khẩu súng sẵn sàng nhả đạn.  Ông lật người nằm ngửa và nhìn tôi trừng trừng nhưng miệng nở một nụ cười.


“ Rye,” ông nói.  “ Khá lắm.”
Người ông oằn lên rồi buông thõng.


“ Liza,” tôi nói.  “ Lấy khẩu súng trường đứng gác cạnh cửa sổ.  Chưa xong đâu.”


Ông nằm đó nhìn tôi.  “ Ta biết thể nào cũng có một ngày.  Biết thế nào cũng chết vì tay cháu.  
Định mệnh…”


Có tiếng chân người chạy lên đồi.  Ba chục thằng súng ống đầy người và nguy hiểm.


“ Cháu sẽ đi về miền Đông, chú Logan.  Chú là người cuối cùng cháu giết.  Cháu sẽ gác súng.”
Tôi nạp đạn lại.  Ông đã dậy tôi như vậy.  Bắn xong là phải nạp đạn ngay.


Chúng đứng đợi bên ngoài.  Tôi bước ra cửa.
“ Smoky Hill,” tôi nói.  “ Mày và thằng Bronc.  Vào đây.”
Trong khi Liza cầm súng trường thì chúng bước vào.


Logan nhìn chúng một phút rồi quay lại nhìn tôi.  “ Chú đã bảo con là sách Plutarch đọc rất hay mà.” ông nói rồi tắt thở.  Ông nằm chết trên sàn nhà và tôi cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng và mất mát.  


Tôi nhìn chúng.  “ Tên thật của ông ta là Logan Pollard,” tôi nói.  “ Ông ta là người thân thiết nhất đời của tao.”
Chẳng ai nói gì.
“ Tao sẽ rời khỏi nơi này,” tôi nói. “ Nàng sẽ đi với tao.  Tao đến đây chỉ vì nàng.”


Smoky Hill chùi tay ống quần.  Bronc nhai nhai cục thuốc trong miệng.
“ Có đứa nào thắc mắc gì không?”
“ Không,” Bronc nói.  “ Mày cứ việc đi.”
Chúng quay đi trở ra và tôi nắm tay Liza.  Nàng kéo lại.  “ Nhưng Rye.  Anh bị thương.”
“ Không chần chừ được.  Kẻo không chúng đổi ý.” tôi nói.


Khi ra khỏi khu Ổ Cướp khoảng mười mấy cây số thì Liza ngừng lại khám xét.  Một viên xuyên qua bắp thịt vai.  Viên thứ hai trúng xương sườn và xuyên thủng ra sau.  Tôi mất khá nhiều máu.
Đi một lúc sau thì chúng tôi gặp Mustang và hai mươi người vũ trang chạy tới.  Họ lặng lẽ cưỡi ngựa đi theo sau.

Hết.












  















 




































































 

No comments:

Post a Comment