Monday, November 16, 2015

CỒN CÁT

CỒN CÁT
Stephen King


Cụ Án trèo vào chiếc thuyền con một cách chậm chạp và vụng về.  Thân xác của một ông già không khác nào một cái túi chứa đầy những đau đớn và nhục nhã.  Tám chục năm trước, khi mới lên mười, ông chỉ việc nhảy tỏm vào xuồng và cứ thế mà chèo đi.  Chẳng cần áo phao, chẳng phải lo lắng, và chắc chắn chẳng có vụ đái xón vào quần.  Mỗi lần ra hòn đảo cỏn con không có tên, trông như cái tàu ngầm,nửa chìm nửa nổi, cách bờ khoảng 200 mét, là một lần thích thú, phấn khởi.   Giờ này thì chỉ có khó chịu.  Và cơn đau bắt đầu từ trong ruột trong gan, lan rộng ra khắp nơi.  Nhưng cụ vẫn cứ đi.  Trong những năm tháng mù mịt cuối đời, cái gì cũng mất đi cái quyến rũ của nó, trừ cái cồn cát nằm bên kia hòn đảo.  


Thời mới khám phá ra nó, cụ tưởng nó sẽ biến mất sau mỗi lần bão tố phong ba, nhất là sau khi trận bão 1944 làm chìm mẫu hạm USS Washington ngoài khơi Bãi Vero thì cụ đinh ninh là những ngọn cuồng phong 100 cây số giờ đã thổi tốc hết cát đi, để lại những tảng đá trơ trụi cùng với mỏm san hô.  Nhưng khi trời lại sáng thì cồn đảo vẫn còn nguyên vẹn.
Kể từ 1935 đến nay thì cụ đã  bơi thuyền qua giải sóng nước  này hàng nghìn lần.  Thường thì chỉ thấy đá tảng, bụi rậm và sỏi cát, nhưng thỉnh thoảng thì có hơi khác.


Sau khi ngồi thoải mái trong thuyền thì cụ bắt đầu chèo từ từ đi về phía hòn đảo.  Những sợi tóc trắng quăn tíu thổi phất phơ trên một cái sọ gần sói hết.  Vài con kên kên bay trên đầu, kêu inh ỏi.  Hồi đó cụ là con của một đại gia giàu có nhất vùng Vịnh Florida, cụ hành nghề luật sư, sau thành Chánh Án Địa Hạt Pinellas, rồi cụ được bổ về làm Toà Án Tối Cao Tiểu Bang.  Thời Reagan, có tin đồn là cụ sẽ được chỉ định vào ghế Tối Cao Pháp Viện, nhưng chuyện không thành, và một tuần sau khi cái thằng ngu Clinton lên làm tổng thống thì Chánh Án Harvey Beecher-  những người quen biết gọi cụ là cụ Án (cụ không có bạn thực sự)- về hưu.  Dù gì đi nữa thì cụ cũng chẳng thích Tallahassee.  Lạnh quá.
Hơn nữa cụ không thích đi xa hòn đảo với cái cồn cát này.  Trong những chuyến chèo thuyền trong sáng sớm tinh sương như thế này, cụ công nhận mình quả tình đã nghiện nó rồi.  Nhưng ai mà chẳng nghiện cái thú tao nhã như thế này?


Bên phía đông có nhiều mỏm đá lởm chởm, một bụi cây u lồi nhô ra từ chỗ nẻ của một tảng đá tung toé đầy phân chim.  Cụ luôn luôn cột thuyền một cách cẩn thận nơi đây.  Mắc cạn ngoài này thì chỉ có bỏ mẹ.  Cơ ngơi của cha cụ (cụ vẫn nghĩ như vậy, mặc dù cụ ông đã mất hơn 40 năm rồi) bao gồm gần ba cây số bất động sản mặt biển đắt tiền của vùng vịnh, dinh thự chính nằm tuốt luốt bên trong về phía Sarasota, và có la khản cổ cũng chẳng ai nghe.  Tommy Curtis, người quản gia, có thể không thấy cụ đâu và đi tìm; nhưng rất có thể, ông sẽ nghĩ là cụ đã đóng cửa cả ngày trong thư phòng  để viết hồi ký.  
Hồi xưa thật là xưa thì mụ Riley có thể lo lắng nếu cụ ở trong thư phòng, không ra ăn, nhưng giờ thì cụ ít khi nào ăn trưa, và cả Curtis lẫn mụ Riley đều biết là cụ có thể nổi quạu nếu bị quấy rầy.  Mà thực ra chẳng có gì để bị quấy rầy; Trong hai năm qua cụ Án chưa viết thêm được một hàng, và trong thâm tâm, cụ biết là cuốn hồi ký sẽ không bao giờ viết xong.  
Cũng chẳng chết thằng Tây nào.  Cái cụ có thể viết thì sẽ không bao giờ viết.


Trèo ra khỏi thuyền còn chậm hơn lúc trèo vào, cụ té chổng bốn vó lên trời, ướt cả quần lẫn áo.  Cụ chẳng lấy thế làm bực bội.  Đây không phải lần đầu cụ té, vả lại đâu có con ma nào thấy đâu.  Cụ vẫn biết là ngần này tuổi rồi mà vẫn đi những chuyến như này thì thật là điên khùng, nhưng không thể ngưng được.  Nghiện là nghiện là nghiện.
Cụ Án lồm cồm bò dậy và ôm bụng cho đến khi cơn đau dịu dần.  Cụ phủi quần cho sạch đất cát và kiểm soát lại dây neo, rồi cụ thấy một con kên kên đậu trên một tảng đá to, nhìn xuống.
“ Xéo!” cụ la bằng giọng của một mụ già.  “ Xéo-xéo đi chỗ khác.”
Nhưng con chim kên vẫn ngồi yên không động đậy.  Cụ Án cúi xuống nhặt một cái vỏ sò to liệng vào nó.  Lần này con chim vỗ đôi cánh tả tơi, phành phạch bay đi.  Cụ nhớ Jimmy Caslow, Tuần Tra Tiểu Bang Florida có lần nói, kên kên có khi biết trước chỗ nào sẽ có xác chết.
Cụ lần mò đi trên con đường mòn sang phía bên kia cồn cát, nơi cát mịn hơn thay vì đầy sỏi và vỏ sò.  Cụ nằm ngủ chập chờn dưới ánh nắng mặt trời ban mai.  Người cụ đau nhức khắp nơi, lưng đau, vai đau, hông đau, đầu gối đau.  Chẳng còn chỗ nào không đau.  
Cụ ngồi nhìn cồn cát, nhìn những hàng chữ viết trong cát.


Khi Anthony Wayward đến biệt thự Pelican Point thì đồng hồ đã chỉ 7 giờ tối, đúng như giờ đã hẹn.  Cụ Án thích ai giữ đúng hẹn, và thằng nhỏ đã đến đúng giờ.  Cụ Án Beecher thầm nhắc mình tránh không gọi Wayland là thằng nhỏ trước mặt nó.


“ Cám ơn anh đã tới,”  cụ Án nói, dẫn Wayland vào thư phòng.  Không có ai ngoài hai người.  Curtis và mụ Riley đã đi về lâu rồi.  “ Anh mang theo đầy đủ giấy tờ chứ?”
“ Dạ thưa cụ có.” Wayland mở chiếc cặp da luật sư và lấy ra một xập hồ sơ.  In trên trang bìa là hàng chữ đánh máy to và đậm: Chúc Thư của HARVEY L. BEECHER.
“ Con không hiểu tại sao cụ không tự viết lấy bản chúc thư này.  Luật về thủ tục chứng thực di chúc thì cụ dạy con không hết.”
“ Trước đây thì đúng đấy,” Cụ Án nói.  “ Nhưng ở vào tuổi của tôi thì cái quên cái nhớ.”
Wayland thẹn đỏ mặt.  “ Con không dám có ý gì---”
“ Tôi biết anh không có ý gì,” cụ Án nói.  “ Anh không nhớ câu “Chỉ có kẻ điên rồ mới tự đại diện mình trước tòa” à?  Thôi ta bắt đầu đi.  Không còn nhiều thời gian nữa.”
 
Thế là họ bắt đầu làm việc.  Wayland hí hoáy ghi chép trong khi cụ Án đọc những tu chính bằng một giọng quan tòa khô khan gẫy gọn.  Thêm tặng vật này, bớt di vật kia.  
Số tiền mới lớn nhất-bốn triệu đồng- dành cho Hiệp Hội Bảo Vệ Sinh Vật Hoang Dã của Thị Hạt Sarasota Beach.   Để hội đủ điều kiện, họ phải đệ đơn thỉnh cầu với cơ quan lập pháp tiểu bang để xác nhận một hòn đảo ngoài khơi Pelican Point vĩnh viễn hoang dã.


“ Cái đó không khó,” cụ Án nói.  “ Nếu muốn, anh có thể đại diện cho họ.  Làm thiện nguyện thì tốt hơn, nhưng dĩ nhiên, tùy anh.  Hòn đảo đó đồng không mông quạnh, chẳng có gì.”
Wayland đồng ý là chuyện giản dị, không có vấn đề gì.
“ Sau khi bản thảo viết xong, ta sẽ cần hai nhân chứng, và người thị thực chữ ký.”  Wayland nói khi họ làm xong.
“ Bản thảo này coi như đã đủ,” cụ Án nói.  “ Nếu có chuyện gì xảy ra cho tôi, thì nó đủ hiệu lực.  Chẳng còn ai để chống đối.  Họ chết hết rồi.”
“ Cẩn tắc vô ưu, cụ ạ.  Mình nên hoàn tất thủ tục đêm nay.  Hay mình nhờ ông quản gia và bà
giúp việc--”
“ Họ về cả rồi,” cụ Án nói, “ Sáng mai tôi sẽ đưa cho anh công chứng viên ở đầu ngõ.  Đưa tôi bản thảo để tôi cất vào két sắt.”
Wayland nhìn bàn tay gầy guộc đang chìa ra.  Khi quan án, dù cho là một quan án đã về hưu, xoè tay thì có nói gì cũng bằng thừa.  Cũng chẳng sao, đó chỉ là phiên bản có chú giải, rồi sẽ được thay thế bằng một văn bản  đầry đủ hơn.  Anh đưa bản chúc thư chưa ký và nhìn cụ Án mở một tủ sắt đầy ắp tiền mặt bỏ vào.
“ Xong,” cụ Án nói.  “ Bây giờ uống một ly rượu mừng nhé? tôi có chai Scotch này ngon lắm.”
“ Dạ.  Thế thì con xin cụ một ly.”
“ Anh uống một mình nhé.  Già rồi, bao tử tôi nó hay quấy rầy lắm.  Có đá không?”
Wayland dơ ra hai ngón tay và cụ Beecher cho hai cục đá vào ly với cái nghi thức chậm chạp của người già.  Wayland uống một ngụm và đỏ mặt ngay lập tức.  Cái đỏ mặt của một người tận hưởng vị rượu mạnh.  Wayland đặt ly rượu xuống rồi nói.  “ Con hỏi có lẽ hơi đường đột, nhưng sao cụ có vẻ vội vã vậy? Cụ vẫn khoẻ mạnh chứ? “
“ Cũng tàm tạm,” cụ nói, tay phe phẩy trong không khí và ngồi xuống, nhăn mặt thở ra.  Một lúc sau cụ nói, “ Anh có thực sự muốn biết tại sao không?”
Wayland ngẫm nghĩ rồi gật đầu.
“ Chuyện này liên quan đến hòn đảo vừa nhắc tới.  Chắc anh chưa thấy nó bao giờ, phải không?”
“ Dạ thưa chưa,”
“ Ít người để ý đến nó.  Bé cỏn con ấy mà.  Rùa biển mà còn không buồn đến đó.  Thế nhưng nó lại rất đặc biệt.  Anh có biết ông nội tôi có tham dự trận chiến Tây Ban Nha-Mỹ không?”
“ Dạ thưa không,”  Wayland trả lời bằng một giọng hơi cung kính quá, và Beecher biết là thằng nhỏ nghĩ mình lẩn thẩn.  Nhưng mà nó sai lầm.  Đầu óc cụ chưa bao giờ tỉnh táo như vậy.  Trước sau cũng phải kể một lần trước khi chết.  
“ Tôi còn giữ tấm hình cụ đứng trên đỉnh đồi San Juan.”
“ Thế ông cụ có phải là luật sư giống cha của cụ và cụ không?”
“ Không, con, ông ấy là một tay cướp.  Và như những tay cướp không bị bắt- quan đương kim thống đốc nhà ta là một trường hợp điển hình-ông ấy tự nhận mình là thương gia.  Nghề ông ấy là mua bán đất đai.  Ông mua đất Florida đầy rắn rết và cá sấu với một giá rẻ mạt rồi bán cho những kẻ dễ tin.  Cụ Balzac đã từng nói, “ Phi gian bất thành.”  Này, này.  Nhớ là anh là luật sư của tôi đấy nhé.  Chớ có hở môi.”
“ Dạ thưa cụ, vâng.”  Wayland tợp một ngụm nữa.  Chưa bao giờ uống rượu Scotch ở đâu mà ngon thế.
“ Hôm ấy ông nội tôi phải trông tôi, mà trong nhà khi ấy có một cô hầu gái trông cũng xinh xắn.  Và ông nội tôi chỉ vào hòn đảo ấy, nói tướng cướp Hắc Hồ Tử hồi xưa chôn ngọc ngà chấu báu ngoài đó. “
“ Và cụ đi thám hiểm để mặc cụ cố ở nhà thám hiểm cô hầu gái.”
Cụ Án gật đầu mỉm cười.  “ Tôi lấy chiếc thuyền tam bản chèo ra đó.  Mặt đảo quay lại đất liền thì toàn là đá và bụi cây nhưng mặt quay ra vịnh thì toàn là cát mịn.  Không bao giờ thay đổi.  Trong suốt tám mươi năm trời đi đi về về, nó không bao giờ thay đổi.”
“ Đâu có tìm thấy vàng bạc châu báu gì, phải không ạ?”
“ Vàng bạc châu báu không thấy.  Tôi chỉ thấy chữ viết trên cát.  Tên người ta.  Như viết bằng
khúc cây, chỉ có cái là không thấy khúc cây nào.  Nét viết khắc sâu trong cát, và bóng mặt trời làm nó nổi lên.”
“ Tên ai vậy cụ?”
“ Anh phải thấy thì mới hiểu được.”


Cụ Án lấy một tờ giấy trên mặt bàn, viết nắn nót cẩn thận, rồi đưa tờ giấy ra để Wayland đọc:
ROBIE LADOOSH.
“ Đó là tên của thằng bạn nố́i khố thuở bé của tôi.  Làm gì cũng có nhau.  Nhưng mùa hè năm ấy nó về quê ngoại ở Virginia hay Maryland chơi rồi.  Tên thật của nó là Robert Ladoucette.”


Wayland ngồi lắng nghe một cách kiên nhẫn.
“ Nhưng anh phải nhớ là lúc đó tôi mới lên mười.  Vàr nếu phải viết tên bạn mình xuống thì tôi sẽ gọi nó là Robie LaDoosh.” cụ lấy ngón tay gõ nhịp trên tờ giấy và trầm ngâm nói như nói với chính mình.  “  Có nghĩa là cũng phần nào ở tôi.  Chắc chắn vậy rồi.  Vấn đề là bao nhiêu?”


“ Thế cụ không phải là người viết trên cát?”
“ Không.  Tôi tưởng tôi nói cũng đã rõ.”
“ Có thể là mấy người bạn khác của cụ chăng?”
“ Không.  Chẳng đứa nào biết gì về hòrn đảo ấy. Nhà chúng nó ở xa, không đời nào lại mò mẫm xuống tận nơi này.”
“ Lạ nhỉ.”
“ Vài ngày sau gia đình tôi được tin là thằng Robie té ngựa gẫy cổ và chết tại chỗ.”


Cả hai ngồi trong im lặng.  Xa xa có tiếng trực thăng bay trrên vùng vịnh.  Chắc cảnh sát đi truy lùng lũ buôn lậu nha phiến.
“ Thế cụ có kể cho ông nội không?”
“ Ngày nhận được điện tín thì ông tôi đi chơi xa.  Không, tôi giữ kín chuyện này trong lòng và không hề nói cho ai khác.
“ Tôi vẫn ngày ngày bơi thuyền ra đảo, tìm kiếm câu trả lời.  Chẳng có gì.  Tất cả đều bình thường.  Dần dà rồi cũng bắt đầu quên đi, nhưng rồi một buổi chiều đi học về ra đảo thì lại thấy một tên khác viết trên cát.  In trên cát.  Peter Alderson.  Một cái tên nghe không quen thuộc.  Vài ngày sau khi ra đầu đường lấy báo, tôi có cái thói quen vừa đi vừa đọc lướt trang chính- mà cái lối vào nhà thì như anh lái xe vào đây thì chắc đã thấy, cũng phải đến bốn, năm trăm mét chứ ít gì.
“ Ngày hôm ấy, dòng tít lớn trên trang bìa như đập vào mắt tôi: NHÂN VIÊN CHÙI KÍNH CHẾT TRONG MỘT TAI NẠN HIẾM CÓ.  Anh chàng xấu số này đang lau kính cửa sổ lầu ba thư viện Sarasota thì cái giàn anh đang đứng bỗng sập.  Tên anh ta là Peter Alderson.”


Cụ Án có thể thấy được nét nghi ngờ hiện lên trên mặt Wayland.  Cũng cũng nhận thấy là anh chàng có vẻ thích rượu ngon, và khi cụ rót châm cho đầy ly thì anh ta chẳng từ chối.  
“ Do đó chắc anh có thể hiểu được lý do tại sao tôi hơi phân vân không biết hiện tượng này có dính dáng gì tới tôi hay không.  Một mặt, tôi biết Robie, và chữ viết trên cát đánh vần sai tên giống như lối tôi đánh vần sai tên nó.  Mặt khác thì tôi hoàn toàn không biết gì về anh chàng
chùi kính này.  Và kể từ đó, tôi bắt đầu ra đảo mỗi ngày, một thói quen mà tôi giữ mãi cho đến giờ này.  
“ Kể từ đó, không biết bao nhiêu cái tên đã xuất hiện trên cồn cát, và ai có tên trên cát cũng đều chết.  Có khi ngay trong tuần, có khi hai tuần, nhưng không bao giờ quá một tháng.  Người nào tôi biết qua biệt danh thì thấy biệt danh viết trên cát.  Một ngày trong năm 1949 tôi thấy hàng chữ ÔNG NỘI vẽ trên cát.  Ông nội tôi mất ở Key West ba ngày sau vì bệnh trụy tim.”


Wayland hỏi bằng một giọng chiều lòng người tâm trí bất thường nhưng không nguy hiểm,
“ Thế cụ có bao giờ thử can thiệp cái … hiện tượng này không? như gọi cụ nội chẳng hạn, nói cụ đi nhà thương hay bác sĩ?”
Cụ Beecher lắc đầu.  “ Nào có biết là trụy tim đâu? Lỡ tai nạn hay giết người thì sao?  Ông nội tôi có khối người thù oán.”
“ Nhưng…”
“ Thật tình mà nói thì tôi quả cũng sợ.  Tôi có cảm tưởng như nơi cồn cát đó có một cái cửa nắp được mở hé ra.  Bên này là cái ta gọi là “ thế giới hiện thực.”  Bên kia là cơ giới máy móc của vũ trụ hoạt động siêu tốc.  Họa là chỉ có mấy thằng điên mới thọc tay vào để can thiệp.”
“ Cụ Án, con đề nghị cụ đừng nói ai nghe chuyện này cho đến khi chúc thư được kiểm nhận xong xuôi.  Cụ thừa biết cái điều kiện căn bản “ tinh thần minh mẫn.””
“ Tôi đã giữ kín hơn tám mươi năm nay,” Beecher nói bằng giọng mà Wayland nghe như là
giọng phán quyết quan tòa.  “ Và tôi chẳng cần phải nói thì anh cũng phải biết, tất cả những gì tôi nói đều được bảo vệ bởi đặc quyền luật sư-thân chủ.”
“ Dạ thưa cụ dạy phải.” Wayland nói.


“ Thường thì khi đọc tên trên cát thì tôi cảm thấy khích động-biết là không phải, nhưng không tránh được.  Duy có một lần mà tôi bị khủng hoảng và trở về đất liền như bị ma đuổi.  Anh có muốn nghe không?”
“ Dạ có.” Wayland nhấc ly nhấm nháp.  Chẳng sao.  Tính tiền giờ mà.
“ Năm ấy là 1959. Tôi làm việc ở Sarasota và sống ở Pelican Point.  Hôm ấy tôi bận việc văn phòng nên về trễ, và khi chèo ra tới cồn cát thì mặt trời màu đỏ thẫm đã ngả về Tây.  Cảnh quan mục kích làm tôi choáng váng chóng mặt và đứng yên như trời trồng.
“ Trên mặt cồn cát lần này được che kín bởi hàng hàng lớp lớp những tên, không biết cơ man nào kể xiết.  Và dưới ánh tà dương trông như được viết bằng máu.
“ Tôi nghĩ là tôi đã thét lên vì sợ hãi và ù té chạy về chỗ cột thuyền và chèo bán sống bán chết về đất liền.
“ Hai ngày hôm sau, một chiếc máy bay hãng TWA trên đường đi Miami, rớt xuống vùng Everglades.  Tất cả 119 hành khách đều thiệt mạng.  Danh sách hành lhách được đăng trên báo.  Tôi nhận ra gần hết.”
“ Cụ thấy những tên đó?”
“ Phải.  Nhiều tháng sau tôi không dám ra đảo nữa, và tôi tự thề với lòng mình là sẽ không bao giờ ra nữa.  Chắc mấy đứa ghiền ma túy hẳn cũng từng nhiều lần tự hứa như vậy.  Và như họ, tôi cảm thấy yếu lòng và chứng nào tật nấy, trở về với thói quen cũ.  


“ Luật sư Wayland, thế giờ anh đã hiểu tại sao tôi cho mời anh ra đây để làm cho xong bản chúc thư, và tại sao phải là tối hôm nay không?”
Wayland hoàn toàn không tin một chút nào, nhưng như nhiều ảo tưởng khác, cái ảo tưởng này cũng có cái lý bên trong của nó.  Cụ Án đã qua cái tuổi 90, da dẻ không còn hồng hào như xưa, và bước đi không còn vững vàng.
“ Có phải tại cụ thấy tên mình trên cát?” Wayland nói.


Cụ Án khựng lại trong khoảnh khắc, nhưng rồi nở một nụ cười.  Đó là một nụ cười khủng khiếp, biến khuôn mặt gầy gò, tái mét của cụ thành một cái sọ người đang há miệng cười.
“ Không phải,” cụ nói, “ Đó không phải là tên tôi.”









No comments:

Post a Comment